HANU
 
 
Hình của Hồ Thu Giang
Phương ngữ Nam Bộ trong ca dao về tình yêu
Bởi Hồ Thu Giang - Friday, 21 December 2007, 03:22 PM
 
Phương ngữ Nam Bộ là một dạng từ ngữ địa phương của vùng đất Nam Bộ. Nó thể hiện cách nói, cách sử dụng từ ngữ, kiểu phát âm riêng của con người Nam Bộ. Phương ngữ Nam Bộ còn là nơi chứa đựng các yếu tố văn hóa, phong tục tập quán, sinh hoạt xã hội của con người và vùng đất Nam Bộ. Tìm hiểu phương ngữ Nam Bộ được thể hiện qua ca dao Nam Bộ là một cách nhằm khẳng định thêm tính độc đáo, sắc sảo, phong phú và đa dạng của con người Nam Bộ xưa trong việc sử dụng lời ăn tiếng nói của mình.

1. Ca dao Nam Bộ trước hết là ca dao của người Việt ở Nam Bộ nên nó mang đầy đủ yếu tố của vùng đất Nam Bộ, trong đó có việc sử dụng từ ngữ của con người ở đây. Sống giữa thiên nhiên hài hòa và đa dạng với rừng tràm bạt ngàn và một vùng sông nước bao la cho nên trong lời ăn tiếng nói của con người ở đây không khỏi ảnh hưởng của các hình tượng thiên nhiên này. Cho nên, có thể nói, giàu tính hình tượng là một đặc điểm trong cách dùng từ của ca dao Nam Bộ:

Chồng chèo thì vợ cũng chèo
Hai đứa cùng nghèo lại đụng với nhau.


“Đụng” ở đây là “lấy”, “lấy nhau” hay nói cho văn hoa một chút là “kết duyên” nhau. Với các từ trên, người Nam Bộ có thể hoàn toàn sử dụng được, nhưng đôi khi con người ở đây không dùng những khuôn mẫu có sẵn đó, mà lại dùng từ “đụng” rất giàu hình tượng này để tạo điểm nhấn, mang sắc thái mạnh. Chính điều này đã làm phong phú thêm cho kho tàng phương ngữ Nam Bộ.

2. Giàu tính so sánh và cụ thể cũng là một đặc điểm của ca dao Nam Bộ. Nam Bộ là một vùng sông nước, có hệ thông sông ngòi chằng chịt nên hình ảnh chiếc ghe, con đò, con cá, con tôm, cần câu, cái lờ... là những vật rất quen thuộc đối với người dân nơi đây. Quen thuộc đến mức đã đi vào tâm thức của họ và được thể hiện qua lời ăn tiếng nói hằng ngày, cũng như đã âm thầm đi vào ca dao:

Thân em như cá trong lờ
Hết phương vùng vẫy không biết nhờ nơi đâu.


“Cá - lờ” là một hình tượng cụ thể, tác giả dân gian đã lấy hình tượng cụ thể này để làm đối tượng so sánh với con người, cụ thể ở đây là cô gái. Trường hợp này, ta cũng sẽ bắt gặp rất nhiều trong ca dao Nam Bộ.

3. Một đặc điểm nữa trong việc sử dụng phương ngữ Nam Bộ trong ca dao Nam Bộ là tính giàu cường điệu, khuếch đại. Đây là cách nói thể hiện rõ nét sự lạc quan và tính cởi mở của con người Nam Bộ. Tính giàu cường điệu, khuếch đại này được con người Nam Bộ sử dụng mang tính chất phác, mộc mạc, độc đáo, gây được ít nhiều cảm xúc cho người đọc:

Anh than một tiếng nát miễu xiêu đình
Cây huệ kia đang xanh lại héo, cá ở ao huỳnh vội xếp vi.

Rõ ràng, chỉ than có một tiếng mà “nát miễu xiêu đình” thì quả là nói quá. Nhưng chính cách nói quá này mới tạo được ấn tượng, gây được cảm xúc, tạo được sự chú ý cho đối phương.

Hay để bộc lộ tình thương của mình, người Nam Bộ không ngại nói thẳng, nói quá, nói cường điệu, nói khuếch đại. Họ nói cốt sao cho hết cái thương đang cháy bỏng trong lòng mình:

Anh thương em,
Thương lún, thương lụn,
Thương lột da óc,
Thương tróc da đầu,
Ngủ quên thì nhớ,
Thức dậy thì thương


4. Giàu tính dí dỏm, hài hước cũng là một trong những đặc điểm trong cách sử dụng từ ngữ trong ca dao Nam Bộ. Ca dao Nam Bộ, ngoài những cách nói cường điệu, giàu hình tượng, đôi lúc có phần thâm trầm, sâu lắng còn có những cách nói mang tính hài hước, dí dỏm. Đây là tinh thần lạc quan trong tính cách của con người Nam Bộ. Chính tinh thần lạc quan này đã tiếp thêm cho họ sức mạnh trong việc chống chọi lại với thiên nhiên khắc nghiệt, với thú dữ hoành hành. Tuy là nói dí dỏm, hài hước nhưng không hẳn là một cách nói chơi, mà là có ngụ ý, ngụ tình. Đó cũng là kiểu nói: “nói chơi nhưng làm thiệt”:

Bên dưới có sông, bên trên có chợ
Hai đứa mình kết vợ chồng nghen.

Rõ ràng, đây là cách nói mang tính chất vừa nói chơi lại vừa nói thiệt. Bông đùa đấy nhưng cũng là thật đấy. Nếu đối phương không chịu thì bảo là “nói chơi”. Còn nếu ưng thuận thì tiếp tục lấn tới tán tỉnh. Và trong bài ca dao sau, cũng không hẳn là dí dỏm, hài hước, nói cho vui một cách đơn thuần:

Trời mưa cóc nhái chết sầu
Ễnh ương đi cưới nhái bầu không ưng
Chàng hiu đứng dựa sau lưng
khều khều móc móc cứ ưng cho rồi.


5. Có cách nói hài hước, dí dỏm, lại có cách nói cường điệu, khuếch đại, ca dao Nam Bộ cũng có những cách nói rất giản dị, chân tình. Trong hoàn cảnh tự tình với nhau, đôi khi họ không dùng những từ hoa mỹ, không nói những từ chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa, mà chỉ nói một cách mộc mạc, bình dân, cốt sao bày tỏ được lòng mình:

Anh về em nắm vạt áo em la làng
Phải bỏ chữ thương chữ nhớ giữa đàng cho em.

Quả là mộc mạc, quả là chân tình. Trong từng câu từng chữ không có gì khó hiểu cả, tạo được sự cảm thông và gây được cảm xúc cho người đọc.

Hay:
Anh tưởng giếng sâu anh nối sợi dây cụt
Ai dè giếng cạn nó hụt sợi dây
Qua tới đây không cưới được cô hai mày
Qua chèo ghe ra biển đợi nước đầy qua chèo trở vô.

Phương ngữ Nam Bộ ra đời tuy có muộn hơn so với phương ngữ của các vùng khác, nhưng không vì thế mà nó nghèo nàn, hời hợt, mà trái lại nó rất đa dạng, phong phú và sâu lắng. Nó chứ đựng các yếu tố văn hóa, phong tục tập quán cùng tính cách của con người Nam Bộ. Phương ngữ Nam Bộ không chỉ đơn thuần là khẩu ngữ của người Nam Bộ mà nó đã bước vào văn học nghệ thuật với một tư thế rất đường hoàng. Những câu ca dao Nam Bộ vừa dẫn trên là một minh chứng cho điều này.


Hình của TT Grass
Thử bàn về những chuyện giao duyên trong văn học dân gian Việt Nam
Bởi TT Grass - Monday, 26 May 2008, 06:44 PM
 

Thử bàn về những chuyện giao duyên trong văn học dân gian Việt Nam

Phan Hưng Nhơn   

 Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam có những bài ca dao trữ tình rất hay thuộc chủ đề tình yêu nam nữ, hôn nhân hay gia đình. Những vần ca dao này được truyền tụng trong dân gian đời này qua đời khác với nhiều mến chuộng. Tuy nhiên cảm nhận được cho biết hết những lời hay ý đẹp trong đó thật không đơn giản. Muốn thưởng thức cái đẹp, cái hay của các bài ca dao này phải bình thản đọc thật kỹ mới thấm thía, nên có người từng nói rằng đã bao lần đọc mà vẫn chưa thấy hết cái hay của các bài ca dao này.

Thời gian qua mau, hàng năm mọi người đều cảm thấy mình tăng thêm tuổi đời. Trai trưởng thành phải lo lấy vợ, gái thành niên phải nghĩ đến việc lấy chồng. Nhưng lấy ai và ai lấy vẫn là một vấn đề. Tuy rằng ngày xưa những hội hè đình đám không thiếu cơ hội cho những cuộc gặp gỡ trai gái vì cái khó vào thời đó là làm thế nào để tỏ tình, phải ăn nói làm sao để có thể phóng cho người mình mến chuộng cái tin hiệu giao duyên khởi đầu.
Tuy rằng trong thi ca cũng đôi lần có diễn tả:
Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?

Mận hỏi thì đào xin thưa:
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.

Hoặc:
Đêm qua mận mới hỏi đào
Vườn xuân đã có ai vào hái hoa ?

Hay là:
Cô kia cắt cỏ một mình
Cho anh cắt với chung tình làm đôi
Cô còn cắt nữa hay thôi
Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng.

Nhưng với người chưa quen biết thì những lời tỏ tình như thế e quá táo bạo, tưởng như đùa giỡn nếu có bị cô nàng đáp lại:
Bao giờ cho chuối có cành
Cho sung có nụ, cho hành có hoa,
Bao giờ trạch đẻ ngọn đa
Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình

thì kể như đã nhận được lời từ chối trắng trợn.
Những ai đã từng một lần sa vào tình yêu đều phải công nhận rằng trong dịp tỏ tình, khó nhất là lời nói đầu tiên. Phải mở lối như thế nào? Phải mượn cớ gì? Đâu có thể vào đề trắng trợn như các câu thơ trên đây.

Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, có những câu ca dao rất hay, tuy mộc mạc nhưng vẫn đầy vẻ trữ tình bóng bẩy:
Đường xa thì thật là xa,
Mượn mình làm mối cho ta một người.
Một người mười tám đôi mươi,
Một người vừa đẹp vừa tươi... như mình.

Cái anh chàng này thật là dí dỏm. Khởi đầu còn dè dặt ấp úng mượn cớ đường xa và làm mối để sau đó vào ngay việc chính nói rõ ngay ước muốn của mình là có được một người yêu cỡ mười tám đôi mươi, vừa trẻ vừa tươi đẹp như cô gái mà chàng ta đang nói chuyện. Tuy không có vẻ tỏ tình nhưng thật sự đã tỏ tình. Có gái tất nhiên phải hiểu là chàng thật sự muốn tỏ tình với mình nhưng ngại ngùng nên nói vòng vo vì ngại gặp những lời cự nự nếu chẳng may bị từ chối. Trong mọi cuộc tỏ tình như đã nói ở trên đây, cái khó khăn nhất là lời nói đầu tiên. Khó lắm mới được dịp trực tiếp gặp nàng thì chàng phải tìm ngay ra một cớ nào đó để mở lời đầu tiên này. Trong bài ca dao „Tát Nước Đầu Đình“, tình yêu chân thật đã giúp chàng trai tìm ra một cớ, đó là xin lại chiếc áo bỏ quên. Nhờ cái áo mà chàng trai nói được lời khó khăn đầu tiên ấy.
Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen.

Nghe chàng trai nói như thế, thoạt đầu cô gái cũng tin ngay. Vì không tin sao được, vì từ thời gian (hôm qua), nơi chốn (đầu đình) cho đến vị trí (trên cành hoa sen), tất cả đều được xác định và đều phù hợp với công việc của chàng trai tát nước ở đó nên mới quên. Nhưng rồi cô gái bỗng có một chút nghi ngờ. Phải rồi, sen làm gì có cành và sen vốn mảnh mai mềm yếu ai lại có thể vắt áo lên đó được. Cô gái hiểu ngay việc cái áo bỏ quên chỉ là cái cớ để chàng trai vào đề mở lời tỏ tình với mình. Ánh mắt nàng long lanh kèm theo nụ cười thông cảm như muốn nói:
„biết tẩy anh rồi“, vì cô ta đã hiểu được tâm trạng thực ý muốn tỏ tình của chàng trai. Chàng trai vẫn ngọt ngào tha thiết: Em được thì cho anh xin.

Lời nói gọn gàng mạch lạc: được thì cho xin, đơn giản quá mà. Nhưng tiếp theo đó chàng trai lại lấp lửng vừa như muốn thăm dò vừa như muốn thắt buộc, đưa cô vào cuộc và nói tiếp ngay:
Hay là em để làm tin trong nhà?

Người đẹp chưa kịp trả lời, chàng trai đã đưa ra một câu hỏi vô lý: làm tin cái gì mới được chứ? Vả lại nàng đâu có lượm được chiếc áo để chàng xin. Chính chàng cũng biết rõ việc bỏ quên chiếc áo là không có thật. Nhưng anh chàng vẫn tảng lờ tiếp tục nói như muốn gợi tình thương yêu trong lòng thiếu nữ cho nên trước sự thiết tha chân tình đó, cô gái đang trong tâm trạng bàng hoàng của giây phút đầu tiên nhắp men say tình ái thì lại nghe thảnh thót bên tai những lời kể lể chân tình:
Áo anh sút chỉ đường tà,
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu.
Áo anh sút chỉ đã lâu,
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng.

Bốn câu nói chân thật nói liền một mạch không khỏi làm cho gái xao xuyến, cô nghĩ rằng xin áo thì cứ việc xin, việc gì phải kể lể hoàn cảnh gia đình của anh ra làm gì? Nhưng đối với chàng trai thì cho rằng nhờ nói như thế anh đã chuyển tới cô một tỏ bày quan trọng là mẹ anh đã già, anh chưa có vợ: „Áo anh sút chỉ đã lâu" rất cần một người kết giúp lại. Lời nói chân thành không khỏi làm rung động trái tim người thiếu nữ, nhất là nàng dư rõ việc đường kim mũi chỉ trong gia đình thuộc thiên chức của người phụ nữ.
Thổ lộ được tâm sự của mình chàng trai liền khéo chuyển lại cách xưng hô một cách tế nhị:
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng.

Cô ấy? Lại cô nào nữa ngoài người đang đối diện với anh. Tuy nhiên người đối thoại với anh cũng có thể hiểu là một cô nào khác. Anh chàng vẫn dùng lối xưng hô lấp lửng „cô ấy“ thay vì một tiếng „em“ thân mật vội vàng có thể làm cho cô gái thẹn thùng bỏ đi thì việc tỏ tình sẽ thất bại. Danh xưng „cô ấy“ đã chuyển bài ca sang hướng mới.
Khâu rồi anh lại trả công,
Đến khi lấy chồng anh sẽ giúp cho.
Giúp em một thúng xôi vò,
Một con lợn béo, một vò rượu tâm
Giúp em đôi chiếu em nằm,
Đôi chăn em đắp, đôi tằm em đeo.
Giúp em quan tám tiền cheo,
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.

„Cô ấy“ không còn là cô gái được áo để chàng xin mà đã trở thành người thiếu nữ khâu giúp áo cho chàng. Trả lại áo chỉ là ơn nhưng khâu giúp áo mới là tình. Mà đã là tình yêu chân thật tất phải đi đến hôn nhân, vì vậy chàng nói ngay đến chuyện đồ sính lễ để diễn tả với cô gái một lễ cưới chu tất với những đồ sính lễ hậu hĩnh. Cô gái nào nghe vậy lại không xao xuyến hãnh diện, lòng đầy mỹ cảm. Đến đây từ „cô ấy“ đã nhẹ nhàng chuyển sang từ „em“ thân mật nồng nàn:
Giúp cho đôi chiều em nằm
Đôi chăn em đắp, đôi tằm em đeo.

Trong câu „đến khi lấy chồng“ chàng trai vẫn lấp lửng không nói lấy ai, nhưng cô gái thông minh suy nghĩ chỉ nhận khâu giúp một đường tà sút chỉ mà lại được trả công hậu hĩnh bằng cả đồ sính lễ. Với linh cảm nhạy bén cô gái nhận ra cái anh chàng này thành thật muốn kết duyên vợ chồng cùng mình.

Bài „Tát Nước Đầu Đình“ đã diễn tả cuộc giao duyên hồn nhiên chân thành nơi thôn dã, qua những lời lấp lửng tài hoa duyên dáng của những người sống nơi đồng nội. Tứ thơ lại đặc sắc tài tình với các mạch thơ đầy uyển chuyển bất ngờ. Bài Tát Nước Đầu Đình tuy là một câu chuyện được tạo dựng nhưng vẫn đầy đủ dí dỏm ý vị và hấp dẫn.
Nhưng những cuộc giao duyên không phải khi nào cũng có kết cuộc tốt đẹp cả. Trong kho tàng văn học dân gian còn lắm ca dao trữ tình diễn tả tình yêu nam nữ mà trong đó những thương mến, nhớ nhung, than thở, oán trách đều tràn đầy thiết tha say đắm:
Anh đến tìm hoa, thì hoa đã nở,
Anh đến bến đò, thì đò đã sang sông.

Cô gái này đã mượn lời ca dao trên đây để biện minh việc nàng phãi lấy chồng, không thể chờ đợi vì chàng trai quá chậm trễ.
Anh đến tìm hoa nhưng hoa đến ngày thì hoa phải nở. Anh đến bến đò nhưng đò đầy thì phải sang sông. Duyên em đến thì em phải lấy chồng! Biết anh khi nào đến mà đợi! Anh không thể chê trách nàng được. Nàng cũng không có gì phải nuối tiếc ân hận!
Trong bài Trèo Lên Cây Bưởi Hái Hoa sau đây, một anh chàng đang thơ thẩn hái hoa thì sực nhớ tới người mình yêu nay đã lấy chồng. Giữa lúc anh đang ngẩn ngơ luyến tiếc thì bất ngờ lại gặp lại người mình từng yêu, nên cầm lòng không đậu, anh đành thổ lộ tâm trạng tiếc hận với nàng:
Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em đi lấy chồng anh tiếc lắm thay!

Ngày trước từng có yêu thầm nhớ trộm chàng trai, nàng ngỏ lời trách móc:
Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh không hỏi những ngày còn không?

„Một mớ trầu cay chỉ đáng giá ba đồng, vả lại gia đình em đâu có đòi hỏi gì cho cam. Chỉ tại anh hay gia đình anh không đến hỏi, nên bây giờ em mới phải lâm vào cảnh đau khổ hiện tại“.
Lời nói của nàng tuy nhẹ nhàng nhưng buồn thấm thía, chứa đựng bao tiếc nuối ngậm ngùi:
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng như cá cắn câu.

Để rồi như phẫn uất vì tình cảm dồn nén mấy lâu, nàng thổn thức nói những lời như trách móc:
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ, Chim vào lồng biết thuở nào ra?

Hình ảnh „cá cắn câu“ và „chim vào lồng“ như diễn tả kiếp đọa đày hiện tại của cô gái, dầu nay không có hạnh phúc cũng phải chung thủy với người chồng hiện tại. Lời than thảm thiết của cô gái khiến ai nghe được không khỏi bàng hoàng xao xuyến.
Một câu ca dao khác diễn tả tâm sự một chàng trai nọ rời làng xóm mình ra đi để tạo điều kiện thực hiện mộng ước lứa đôi với người anh hằng ấp ủ thương yêu. Nhưng lúc anh thành đạt trở về làng cũ thì cảnh cũng như người đều đã đổi thay:
Ngày đi lúa chửa chia vè,
Ngày về lúa đã đỏ hoe đầy đồng.
Ngày đi em chửa có chồng,
Ngày về em đã tay bồng tay mang.

Thật là phũ phàng gặp lại nàng, nàng chẳng những đã có chồng mà đã trở thành một thiếu phụ hai con với nhan sắc tàn phai tiều tụy, khiến nỗi buồn thất vọng của chàng trai càng não nề khôn tả, và người thiếu phụ cũng không khỏi chạnh lòng than thở:
Tay lau nước mắt ướt nhèm,
Tại anh chậm bước nên em... có chồng.

Một bài thơ Đường từng tả một thiếu phụ trước khi lấy chồng từng nhận một quà tặng của một chàng trai yêu mình:
Quân tri thiếp hữu phu,
Tặng thiếp song minh châu.
Cảm quân triền miên ý,
Hệ tại hồng la nhu...

từng được Ngô Tất Tố dịch:
Chàng hay em có chồng rồi,
Yêu em, chàng tặng một đôi ngọc lành.
Vấn vương những cảm tâm tình,
Em đeo trong áo lót mình màu sen.

Nhưng rồi nghĩ đến bổn phận chung thủy với chồng, thiếu phụ đem ngọc trả lại chàng trai nọ:
Hoàn quân minh châu, song lệ thùy,
Hận bất tương phùng vị giá thì!
(Trả ngọc chàng, hạt lệ như mưa,
Hận không gặp gỡ khi chưa có chồng)

Trong những ca dao Việt Nam cũng thường diễn tả những cảnh lỡ làng của những đôi trai gái hữu duyên nhưng vô phận... Về hình thức ca dao được trình bày theo thể đối thoại, nên càng thêm linh động:
- Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím, Em đã có chồng, em trả lại yếm anh.
- Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh, Yếm em, em mặc, yếm gì anh, anh đòi!

Chàng trai và cô gái đã từng yêu nhau. Cô gái đã từng nhận một cái yếm do chàng tặng. Nhưng vì do một hoàn cảnh nào đó cuộc tình đôi lứa bị dang dở, cuối cùng họ không lấy nhau được. Cô gái đã đi lấy chồng và người này lại không phải người cô từng yêu. Hoa cúc vàng không nở ra hoa cúc vàng mà lại nở ra hoa cúc xanh.
Nhưng bài ca dao này được thể hiện dưới dạng hai câu đối thoại nên nội dung có thể được hiểu theo nhiều cách trái ngược nhau. Nếu câu thứ nhất là lời của người con gái, thì nội dung bài ca dao tràn đầy yêu thương:

Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím,
Em đã có chồng, em trả lại yếm anh.

Cúc vàng phải nở ra hoa cúc vàng nhưng đây lại nở ra hoa cúc tím. Trai gái yêu nhau tất phải lấy nhau như mong ước. Nhưng tình yêu đôi lứa này đã không dẫn đến hôn nhân. Yêu nhau mà chẳng lấy nhau được thì việc giữ lại quà tặng của người yêu càng làm cho nàng càng ray rứt xót xa.
Đáp lại lời người con gái, chàng trai cũng buồn nhưng thông cảm: Cúc vàng không nở ra cúc vàng mà lại nở ra hoa cúc xanh. Cũng như họ đã yêu nhau nhưng nay tình yêu đã không thành, khác nào một hoa cúc khác đã nở ra. „Bây giờ sao em trả lại anh kỷ vật anh đã tặng em? Đó là của em! Đâu còn là của anh nữa! Yếm em, em mặc, yếm gì anh, anh đòi!“. Lời nói trách móc nhẹ nhàng phải là lời của một chàng trai từng say đắm, chân thành yêu nàng và dầu nay tình yêu không thành, chàng vẫn cao thượng bao dung chấp nhận. Dầu hoa cúc vàng có nở ra hoa cúc tím hay cúc xanh đi nữa, đối với hai người tình yêu đâu dễ gì phai lạt.
Nhưng nếu câu thứ nhất của bài ca dao là lời của người con trai thì nội dung nên hiểu theo một cách khác.
Vì thấy không lấy được người mình mong muốn, người con trai trở nên nhỏ mọn, tầm thường đòi lại vật mà anh ta đã tặng cho người con gái:
Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím,
Em đã có chồng, em trả lại yếm anh.

Trước cử chỉ nhỏ mọn, kém cao thượng của chàng trai, người con gái đanh đá trả lời:
Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh,
Yếm em, em mặc, yếm gì anh, anh đòi!

„Tình yêu đôi lứa đã ngang trái không thành nhưng anh không thể coi thường tình yêu của anh như thể đòi lại những gì anh đã tặng em. Yếm đó bây giờ là của em, em có quyền giữ nó“.
Bài ca dao như thế được thể hiện dưới hai câu đối thoại nên nội dung có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Muốn hiểu được nội dung đúng của bài ca dao, cần phải nghiên cứu kỹ ngôn ngữ mà tác giả bài ca dao đã khéo léo sử dụng.
Nói tóm lại những bài ca dao trên đây về những cuộc giao duyên, dẫu có được thể hiện dưới nhiều tình huống tâm trạng có khác nhau đi nữa, nhưng cũng đều tuyệt vời diễn tả nỗi khát vọng tình yêu lứa đôi với những lời tỏ tình có khi xa xôi bóng bẩy, lấp lửng, có khi mộc mạc bộc trực hoặc những thở than oán trách. Muốn thưởng thức cái đẹp, cái hay của các bài ca dao này, phải bình thản đọc thật kỹ mới thấm thía, nên có người từng nói rằng đã bao lần đọc mà vẫn chưa thấy hết cái hay của các bài ca dao này.

 

Nguồn: http://www.viengiac.de