HANU
 
 
Hình của Nguyễn Thái Kiên
Tết Việt Nam
Bởi Nguyễn Thái Kiên - Thursday, 5 October 2006, 06:42 PM
 

Tại sao cúng Giao thừa ngoài trời?

Lẽ trời đất có khởi thuỷ phải có tận cùng, một năm có bắt đầu ắt phải có kết thúc, bắt đầu vào lúc giao thừa, cũng lại kết thúc vào lúc giao thừa.

Giao thừa là gì? Theo từ điển Hán Việt của Ðào Duy Anh nghĩa là cũ giao lại, mới đón lấy. Chính vì ý nghĩa ấy, nên hàng năm vào lúc giao tiếp giữa hai năm cũ, mới này, có lễ trừ tịch.

* Lễ trừ tịch

Trừ tịch là giờ phút cuối cùng của năm cũ sắp bắt đầu qua năm mới. Vào lúc này, dân chúng Việt nam theo cổ lệ có làm lễ trừ tịch. Ý nghĩa của lễ này là đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến. Lễ trừ tịch còn là lễ để "khu trừ ma quỷ", do đó có từ "trừ tịch". Lễ trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên còn mang tên là lễ giao thừa.

* Cúng ai trong lễ giao thừa

Tục ta tin rằng mỗi năm có một ông hành khiển coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao công việc cho thần kia, cho nên cúng tế để tiễn ông cũ và đón ông mới. Lễ giao thừa được cúng ở ngoài trời là bởi vì các cụ xưa hình dung trong phút cựu vương hành khiển bàn giao công việc cho tân vương luôn có quân đi, quân về đầy không trung tấp nập, vội vã (nhưng mắt trần ta không nhìn thấy được), thậm chí có quan quân còn chưa kịp ăn uống gì.

Những phút ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả, toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà trời đã cai quản mình năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị không thể vào trong nhà khề khà mâm bát mà chỉ có thể dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà.

* Sửa lễ giao thừa

Người ta cúng giao thừa tại các đình, miếu, các văn chỉ trong xóm cũng như tại các tư gia. Bàn thờ giao thừa được thiết lập ở giữa trời. Một chiếc hương án được kê ra, trên có bình hương, hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn nến. Lễ vật gồm: chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu nước và vàng mã, đôi khi có thêm chiếc mũ của Ðại Vương hành khiển.

Ðến giờ phút trừ tịch, chuông trống vang lên, người chủ ra khấu lễ, rồi mọi người kế đó lễ theo, thành tâm cầu xin vị tân vương hành khiển phù hộ độ trì cho một năm nhiều may mắn. Các chùa chiền cũng cúng giao thừa nhưng lễ vật là đồ chay. Ngày nay, ở các tư gia người ta vẫn cúng giao thừa với sự thành kính như xưa nhưng bàn thờ thì giản tiện hơn, thường đặt ở ngoài sân hay trước cửa nhà.

* Tại sao cúng Giao thừa ngoài trời

Dân tộc nào cũng coi phút giao thừa là thiêng liêng. Các cụ ta quan niệm: Mỗi năm Thiên đình lại thay toàn bộ quan quân trông nom công việc dưới hạ giới, đứng đầu là một ngài có trí như quan toàn quyền. Năm nào quan toàn quyền giỏi giang anh minh, liêm khiết thì hạ giới được nhờ như: được mùa, ít thiên tai, không có chiến tranh, bệnh tật...Trái lại, gặp phải ông lười biếng, kém cỏi, tham lam thì hạ giới chịu mọi thứ khổ.

Các cụ hình dung phút ấy ngang trời quân đi, quân về đầy không trung tấp nập, vội vã (nhưng mắt trần ta không nhìn thấy được) thậm chí có quan quân còn chưa kịp ăn uống gì. Những phút ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả, toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà Trời đã cai quản mình năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới.

Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị không thể vào trong nhà khề khà mâm bát mà chỉ có thể dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà..

* Lễ cúng Thổ Công

Sau khi cúng giao thừa xong, các gia chủ cũng khấn Thổ Công, tức là vị thần cai quản trong nhà. Lễ vật cũng tương tự như lễ cúng giao thừa.

* Mấy tục lệ trong đêm trừ tịch

- Sau khi làm lễ giao thừa, các cụ ta có những tục lệ riêng mà cho đến nay, từ thôn quê đến thành thị, vẫn còn nhiều người tôn trọng thực hiện.

- Lễ chùa, đình, đền: Lễ giao thừa ở nhà xong, người ta kéo nhau đi lễ các đình, chùa, miếu, điện để cầu phúc, cầu may, để xin Phật, Thần phù hộ độ trì cho bản thân và gia đình và nhân dịp này người ta thường xin quẻ thẻ đầu năm.

- Kén hướng xuất hành: Khi đi lễ, người ta kén giờ và hướng xuất hành, đi đúng hướng đúng giờ để gặp may mắn quanh năm.

- Hái lộc: Ði lễ đình, chùa, miếu, điện xong người ta có tục hái trước cửa đình, cửa đền một cành cây gọi là cành lộc mang về ngụ ý là "lấy lộc" của Trời đất Thần Phật ban cho. Cành lộc này được mang về cắm trước bàn thờ cho đến khi tàn khô.

- Hương lộc: Có nhiều người thay vì hái cành lộc lại xin lộc tại các đình, đền, chùa, miếu bằng cách đốt một nắm hương, đứng khấn vái trước bàn thờ, rồi mang hương đó về cắm và bình hương bàn thờ nhà mình.Ngọn lửa tượng trưng cho sự phát đạt được lấy từ nơi thờ tự về tức là xin Phật, Thánh phù hộ cho được phát đạt quanh năm.

- Xông nhà: Thường người ta kén một người "dễ vía" trong gia đình ra đi từ trước giờ trừ tịch, rồi sau lễ trừ tịch thì xin hương lộc hoặc hái cành lộc ở đình chùa mang về. Lúc trở về đã sang năm mới và ngưòi này sẽ tự "xông nhà" cho gia đình mình, mang sự tốt đẹp quanh năm về cho gia đình. Nếu không có người nhà dễ vía người ta phải nhờ người khác tốt vía để sớm ngày mồng một đến xông nhà trước khi có khách tới chúc tết, để người này đem lại sự may mắn dễ dãi.

Theo Báo Ninh Thuận

Hình của Nguyễn Thái Kiên
Cây nêu ngày Tết và nghi thức thờ cúng tổ tiên
Bởi Nguyễn Thái Kiên - Thursday, 5 October 2006, 06:44 PM
 

TTO - Ở Gia Định xưa, sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, Tập Hạ chép rằng: "bữa trừ tịch (tức ngày cuối năm) mọi nhà ở trước cửa lớn đều dựng một cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc, gọi là "lên nêu"... có ý nghĩa là để làm tiêu biểu cho năm mới mà tảo trừ những xấu xa trong năm cũ.

Ngày 7 tháng Giêng triệt hạ, gọi là "hạ nêu" phàm những khoản vay mượn thiếu thốn trong tiết ấy không được đòi hỏi, đợi ngày hạ nêu rồi mới được đòi hỏi".

Tại sao một mỹ tục đậm đà bản sắc dân tộc với ý nghĩa tốt đẹp như thế, đến nay lại không thấy nữa? Họa chăng chỉ còn trong sách báo cùng trong thơ văn với câu đối Tết: "Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ. Cây nêu tràng pháo, bánh chưng xanh".

Người Trung Quốc xưa thuờng dùng cây đào, lấy tích của cây bàn đào của bày Tây Vương Mẫu, là chỗ quỷ ở, thường có hai con quỷ lớn là Thần Đồ, Uất Lũy hay bắt các quỷ xấu mà ăn, cũng kêu là đào phù (nghĩa là bùa đào).

Cũng theo ý nghĩa trừ tà ấy, những nhà theo đạo Phật treo lên cây nêu nào là khánh, là chuông nhà Phật để cho biết ở đây có Phật Bà Quan Âm độ trì, quỷ dữ phải tránh xa, để gia đình được bình an. Có lẽ do ý nghĩa mê tín, trừ ma quỷ nên khi Tấy đến, rồi Cách mạng nổi lên, dần dần người ra bỏ tục trồng nêu.

Trước hết, cây tre là biểu trưng cho tính chất, bản sắc riêng của con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Tre là thể hiện cương nhu phối triển! Tre có thể uốn cong trước gió. Gió bão cực mạnh cũng không làm tre đổ hay bật rễ. Cây tre cũng có thể chẻ mỏng để làm các vật dụng đồng thời có thể dùng để làm khiêng, chống đỡ nhà cửa...

Trồng tre vào đầu năm mới để khẳng định tinh thần Việt Nam và trồng tre trước cửa nhà trong bảy ngày đầu năm còn là đánh dấu những ngày vui, hạnh phúc nhất trong năm, những may mắn mới với ước mong nhiều đổi mới hơn, nhiều thành đạt hơn.

* Thờ cúng tổ tiên một cách hệ thống đã dần dần trở thành quốc đạo

Văn hóa phương Tây khác với văn hóa phương Đông ở nhiều điểm, trong đó phương Tây không thờ cúng tổ tiên, không để bàn thờ tổ tiên trong nhà; trong khi đó các dân tộc phương Đông đều có nhiều hình thức thờ cúng, tưởng nhớ đến người chết như người Ai Cập trong các ngôi mộ cổ, hay bàn thờ Tổ tiên trong các dân tộc Á Đông như Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên.

Song độc đáo nhất ở VN, thờ cúng tổ tiên trở thành hệ thống và có ý nghĩa riêng của nó, rất quan trọng cho đời sống con người VN. Khởi đầu những ngôi mộ trong hang động ở vùng Trung du Bắc bộ có những vật dụng đem theo cho người chết với sự tin tưởng người chết vẫn sống ở thế giới vĩnh hằng. Con người, ông bà, tổ tiên mình có thể thành Tiên, thành thần, thành thánh, thành Phật chứ không phải người nhà trời mới linh thiêng.

Chính vì vậy, người ta lập bàn thờ, nhà thờ họ một cách trang trọng, cũng nhiều nhà thờ họ đủ đồ thờ trang trọng như thờ Thần thờ Thánh. Và khi cúng tế, người ta luôn cầu âm đức, tổ tiên phù hộ độ trì cho con cháu. Không chỉ ngày giỗ, ngày Tết mà còn có những dịp trong đại của con người như đám cưới, đám ma hay khi gặp hoạn nạn, hay khi đi thi, làm ăn, đều khấn vái, kính cáo Tổ tiên. Việc hiện nay hầu hết các cặp cô dâu chú rể mới đều làm lễ vu quy hay nghinh hôn, trước bàn thờ gia tiên cũng là một điểm rất độc đáo của văn hóa VN.

Không những thế, hệ thống thờ tổ tiên của vũ trụ, tức Ông tạo hóa hay Ông trời, thời phong kiến chỉ có vua mới được thờ cúng ở đàn Nam Giao, giống như bên Trung Hoa, thì nay ở Trung và nhất ở Nam Bộ nhiều nhà có bàn Thiên ở ngoài trờ để thờ trời. Tổ tiên của dân tộc là vua Hùng cũng được thờ, và nay trở thành quốc lễ. Ngoài ra, còn thờ các tiền nhân anh hùng dân tộc như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung...

Các nhà nho trước đây cho rằng thờ cúng tổ tiên chỉ để thể hiện chữ hiếu, với tinh thần chim có tổ, người có tông, uống nước nhớ nguồn, chứ không phải là đạo. Song chữ đạo của phương Đông là con đường, chứ không phải theo nghĩa tôn giáo, chủ nghĩa (ism) như phương Tây quan niệm.

Ngày nay, nhất là sau Cộng đồng Vatincan II, thiên chúa giáo vốn rất nghiêm khắc với việc thờ tổ tiên, bây giờ đã rộng rãi, các giáo dân vận có thể lập bàn thờ gia tiên. Mọi người VN hiện nay đều thờ tổ tiên và hầu hết đều có bàn thờ gia tiên, đó chính là quốc đạo, lấy con người làm chủ vạn vật, coi trọng âm đức, cái đức vô hình thiêng của con người.

Xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, không thể không coi trọng thờ tổ tiên với truyền thống lâu đời và đã trở thành hệ thống. Đó cũng là nét riêng của dân tộc VN vậy! Thờ tổ tiên chính là quốc đạo của người VN vậy!

TS NGUYỄN NHÃ

Hình của Nguyễn Thái Kiên
Phố chợ Tết ở Sài Gòn
Bởi Nguyễn Thái Kiên - Thursday, 5 October 2006, 06:46 PM
 

TTO - Mỗi độ cuối năm, các phiên chợ đặc biệt phục vụ Tết đi vào hoạt động để phục vụ cho người dân. Chợ lá dong ông Tạ, chợ "tài lộc" Hãi Thượng Lãn Ông, chợ thư pháp Trương Định...

Chợ lá dong ông Tạ

Nằm trải dài trên đường Cách Mạng Tháng Tám, tập trung nhiều nhất là ngã ba Cách Mạng Tháng Tám - Phạm Văn Hai (Q.Tân Bình, TP.HCM) bán lá dong, lạt để phục vụ nhu cầu gói bánh chưng.

Chợ lá dong Ông Tạ nhóm họp suốt ngày đêm đến 29 tháng chạp âm lịch.

Chợ "tài - lộc"

Tạm gọi các khu vực bán bao lì xì, phụ liệu trang trí ngày Tết với cái tên "chợ tài lộc" trên đường Hải Thượng Lãn Ông (Q.5). Những ngày cuối năm, các gian hàng này trang hoàng rực rỡ hơn cả, mặt hàng cũng phong phú hơn: bao lì xì, hồng đơn, liễn đỏ, lồng đèn, đồng tiền, ông Phước - Lộc - Thọ...


"Khu chợ" này họp quanh năm nhưng nhộn nhịp nhất là vào những ngày cuối năm.

Đỏ rực một gian hàng bán các phụ liệu trang trí ngày Tết trên đường Hải Thượng Lãn Ông

Một góc khu chợ "tài lộc"Một cửa hàng phục vụ "câu đối đỏ" ngày Tết

Chợ ngũ quả

Tết đến, mặt hàng trái cây phụ vục Tết của các khu chợ cũng phong phú và ngon hơn nhiều. Một số chợ là "tâm điểm" cho mâm ngũ quả ngày Tết như chợ Phạm Văn Hai (Q.Tân Bình), Bà Chiểu (Q.Bình Thạnh)...

Dưa hấu, bưởi...

thơm đỏ...... sung và dừa trên đường Phạm Văn Hai (Q.Tân Bình)

Phố thư pháp

Phố thư pháp trên đường Trương Định được nhóm họp trên đoạn vỉa hè rộng rãi, thoáng mát ven đường Trương Định. Phố thư pháp hoạt động được hơn 5 năm và thường bắt đầu từ giữa tháng Chạp đến 30 Tết.

Chợ hoa

Tập trung nhiều ở công viên Lê Văn Tám, công viên Lê Thị Riêng, công viên Hoàng Văn Thụ, trải dài các công viên khác và một số tuyến đường lớn trong thành phố. Các khu hội chợ hoa này thường tập trung từ hạ tuần tháng Chạp đến 30 Tết.

Một góc trưng bày đào...... và đào phai trong chợ hoa công viên Hoàng Văn Thụ

Thanh long - ảnh chụp trên đường An Dương Vương, Q.5Chợ quất trên đường Cách Mạng tháng 8 (Q.Tân Bình)

Chợ "trời" - chợ vỉa hè

Cuối năm cũng là dịp của các khu chợ trời, chợ vỉa hè. Các loại hàng may mặc, quần áo, giày dép được bày bán nhiều trên các vỉa hè, tập trung nhiều nhất là tuyến đường Nguyễn Trãi (Q.5), Lê Văn Sỹ, Hai Bà Trưng...

Một góc chợ vỉa hè được nhóm trên đường Nguyễn Trãi

Chợ "di động"...

Chợ "di động", tên gọi những xe, người phục vụ tận nơi những mặt hàng cho ngày Tết như đầu lân, bong bóng, lồng đèn...

Một cửa hàng phục vụ trang cụ múa lân trên đường Trần Hưng Đạo B (Q.5)"Chợ di động" lồng đèn - một nét điểm thêm sắc màu cho ngày Tết

V.THẢO - KINH LUÂN

Hình của Nguyễn Thái Kiên
Bánh chưng ngày Tết
Bởi Nguyễn Thái Kiên - Thursday, 5 October 2006, 06:48 PM
 
TTO - Dân tộc nào cũng có thức ăn truyền thống. Song chưa thấy dân tộc nào có một thức ăn vừa độc đáo, vừa ngon lành, vừa bổ, vừa gắn liền với truyền thuyết dân tộc lâu đời, lại vừa có nhiều ý nghĩa sâu xa về vũ trụ, nhân sinh như bánh chưng, bánh dầy của Việt Nam.

Bánh chưng hình vuông, màu xanh, tượng trưng trái Đất, âm. Bánh dầy hình tròn, màu trắng, tượng trưng Trời, dương, thể hiện triết lý Âm Dương, Dịch, Biện chứng Đông Phương nói chung và triết lý Vuông Tròn của Việt Nam nói riêng.

Bánh chưng âm giành cho Mẹ, bánh dầy dương giành cho Cha. Bánh chưng bánh dầy là thức ăn trang trọng, cao quí nhất để cúng Tổ tiên, thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn, nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục to lớn, bao la như trời đất của cha mẹ.

Theo truyền thuyết, bánh chưng bánh dầy có từ thời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi phá xong giặc Ân.Vua muốn truyền ngôi cho con, nhân dịp đầu xuân, mới hội các con mà bảo rằng: ”Con nào tìm được thức ngon lành để bày cỗ có ý nghĩa hay thì ta truyền ngôi cho”.

Các con trai đua nhau kiếm của con vật lạ, hy vọng được làm vua. Người con trai thứ mười tám của Hùng Vương thứ 6 là Lang Lèo (tên chữ gọi là Tiết Liêu), tính tình thuần hậu, chí hiếu, song vì mẹ mất sớm, không có người mẹ chỉ vẽ cho, nên rất lo lắng không biết làm sao, bỗng nằm mơ thấy Thần Đèn bảo: ”Vật trong trời đất không có gì quí bằng gạo, là thức ăn nuôi sống người. Nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng trưng Trời Đất. Lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột để tượng hình cha mẹ sinh thành”.

Lang Lèo (sau có người gọi Lang Liêu) tỉnh dậy, mừng rỡ làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp, đậu xanh thật tốt, thịt lợn (heo) ba rọi dày thật tươi.

Đến hẹn, các lang (con vua) đều đem cỗ tới, đủ cả sơn hào hải vị. Lang Lèo chỉ có bánh Dầy bánh Chưng. Vua lấy làm lạ hỏi, ông đem thần mộng tâu lên. Vua nếm bánh, thấy ngon, lại khen có ý nghĩa hay, bèn truyền ngôi cho Lang Lèo, tức đời vua Hùng Vương thứ 7.

Từ đó, cứ đến Têt nguyên đán hay các đám cưới, đám tang, dân gian bắt chước làm theo, sau thành tục lệ để cúng Tổ tiên, cúng Trời Đất.

Bánh chưng độc đáo, sáng tạo, đậm đà bản sắc dân tộc còn  ở những vật liệu và cách gói, cách nấu. Lúa gạo thì tượng trưng cho nền văn hóa lúa nước, nhiệt đới, nóng và ẩm, được chế biến dưới nhiều hình thức khác nhau, mang tính đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam hay Đông Nam Á. Người Trung Hoa ưa chế biến từ bột mì hơn; người Ấn Độ thì ưa chế biến từ kê…

Thịt lợn hay heo được coi là lành nhất, nên các bệnh viện ngày nay thường chỉ sử dụng lọai thịt heo chứ không dùng thịt bò hay thịt gà là thức ăn chính cho bệnh nhân. Người Việt thích thịt luộc hay nấu. Đậu xanh vừa ngon lành vừa bổ dưỡng. Bánh chưng như thế rất nhiều chất, đặc trưng của các món ăn Việt Nam.

Độc đáo hơn nữa, khi nấu trong một thời gian khá dài thường trên 10 tiếng, phải để lửa râm râm, bánh mới ngon. Nấu bằng lò gas, tuy nhanh, nóng quá cũng sẽ không ngon. Vì được gói bằng lá dong, bánh chưng vừa xanh vừa đẹp, thơm hơn lá chuối. Phải gói thật kín, không cho nước vào trong, bánh mới ngon. Lạt phải buộc thật chật, chắc; gói lỏng tay, ăn không ngon. Song nếu chắc quá, bánh cũng không ngon.

Tuy gọi là luộc (người Việt Nam thích luộc, người Trung Quốc thích quay), song vì nước không tiếp xúc với vật liệu được luộc, nên lại là hình thức hấp hay chưng (chưng cách thủy), khiến giữ nguyên được chất ngọt của gạo, thịt, đậu! 

Có lẽ vì cách chế biến bằng chưng, nên mới gọi là bánh chưng. Vì thời gian chưng lâu nên các hạt gạo mềm nhừ quyện lấy nhau, khác hẳn với xôi khi người ta “đồ”, khi hạt gạo nhừ quyện vào nhau như thế, người ta gọi bánh chưng “rền”. Vì nấu lâu như thế, các vật liệu như thịt (phải là thịt vừa nạc vừa mỡ mới ngon; chỉ thịt nạc, nhân  bánh sẽ khô), gạo, đậu đều nhừ. Cũng vì thời gian chưng lâu, khiến các chất như thịt, gạo đậu nhừ, có đủ thời gian chan hòa, ngấm vào nhau, trở  thành hương vị tổng hợp độc đáo, cũng mang một triết lý sống chan hòa, hòa đồng của dân tộc ta.

Cách chế biến như thế rất độc đáo, công phu. Bánh chưng nhất là bánh dầy có thể để lâu được. Khi ăn bánh chưng, người ta có thể chấm với các lọai mật hay với nước mắm thật ngon, giàu chất đạm; cũng có thể ăn thêm với củ hành muối, củ cải dầm hay dưa món… Dân Bắc Ninh xưa thích nấu bánh chưng, nhân vừa thịt vừa đường!

Bánh chưng, bánh dầy quả thật là một món ăn độc đáo có một không hai của dân tộc. Bánh chưng là một trong những bằng chứng cụ thể chứng tỏ văn hóa ẩm thực Việt Nam có nhiều tiềm năng khiến Việt Nam trở thành một cường quốc về văn hóa ẩm thực!

HÃN NGUYÊN NGUYỄN NHà
(Tiến sĩ sử học, trưởng Nhóm Nghiên Cứu Văn Hóa Ẩm thực VN)

Hình của Nguyễn Thái Kiên
Ma hin xứ Lạng
Bởi Nguyễn Thái Kiên - Thursday, 5 October 2006, 06:50 PM
 
TTCN - Tắm chó bằng lá bưởi đun nóng, sau đó quàng trên cổ chó những vòng vải đỏ hoặc giấy hồng điều và chó còn được cúng tế bằng nghi lễ đặc biệt, đó là một phong tục có từ lâu đời mỗi khi tết đến, xuân về của dân tộc Nùng Cháo ở xứ Lạng dành cho con chó đá, gọi theo tiếng Tày – Nùng là “ma hin”.

Bản Nà Khuất (xã Yên Trạch, huyện Cao Lộc, Lạng Sơn) có gần chục người làm chó đá, nổi tiếng hơn cả là ông Lương Hải Cường, đã ngoài 70, và con trai là Lương Văn Hộ, 32 tuổi. Nhìn các động tác thuần thục, tỉ mỉ đến kỳ công mới thấy hết công việc nặng nhọc của những người đẽo đá thành chó. Không những phải biết lựa chiều để đá không nứt, vỡ mà còn phải biết cách đánh bóng cho “bộ lông” chó đá thật “nuột”.

Chó đá được bày bán ở chợ Kỳ Lừa - Lạng Sơn

Trời đã phú cho bản làng Yên Trạch có nguồn đá xanh quí với rất nhiều màu như đỏ, vàng nâu, đen ở dưới hang sâu, chỉ nội lấy lên cũng đã công phu. Mỗi năm bố con ông Cường làm được trên dưới trăm con, nhiều người lặn lội cả ngày đường đến Nà Khuất để lấy.

Đôi khi rảnh rỗi, gia đình đèo chó đá ra chợ Kỳ Lừa, Giếng Vuông ở TP Lạng Sơn để bán, giá khoảng 50.000-60.000 đồng/con (nặng 30-50kg). Mùa tết bán được chừng chục con, đủ để lo một cái tết tươm tất...Ma hin thường được để ở góc nhà hay góc bếp, được cúng bằng bát cơm, đĩa rau hoặc một gói kẹo.

Sau khi thắp hương, người ta lầm rầm khấn vái để con chó đá được bình an và khỏe mạnh yên lành, canh giữ cửa nhà.  Vào ngày Tết Nguyên đán khi đến nhà chúc tết, có người còn lì xì cho ma hin để tỏ lòng biết ơn chó đá đã trông giữ nhà cửa trong cả một năm cho gia chủ và láng giềng...

NGUYỄN DUY CHIẾN

Hình của Nguyễn Thái Kiên
Tết Huế
Bởi Nguyễn Thái Kiên - Thursday, 5 October 2006, 06:55 PM
 

TTO - Người Huế cũng như nhiều vùng miền khác trên đất Việt, đều có các thông lệ đón Tết Nguyên đán riêng của mình với một số quan niệm riêng về năm mới. Phóng sự ảnh Minh Tự, Thái Lộc thực hiện.

Đã thành thông lệ, cứ mỗi ngày đầu năm là mọi đổ xô về vùng đồi núi phía tây nam thành Huế, nơi được xem là "đất thiêng" để lễ chùa và viếng lăng mộ ông bà. Trong ảnh là cảnh viếng chùa Từ Hiếu trong buổi sớm tinh mơ ngày mồng 1 tếtCây nêu đón tết trước cổng chùa

Vãng cảnh dưới hàng mai vàng nở rộ tại chùa Hoàng Mai (Huế) trong ngày đầu nămSân chơi đầu năm cho các bạn trẻ, do Nhà văn hóa Huế tổ chức mỗi chiều trên đường Trần Hưng Đạo Huế

Các bạn trẻ Huế đang vui nhộn cùng trò chơi "Con gà đẻ trứng vàng"Du khách trang trí hoa cho xe du xuân trên đất Huế

Cưỡi voi đi thăm Đại Nội trong ngày TếtKhách tây rất thích thú trước "món" cờ người diễn ra trong sân điện Cần Chánh

MINH TỰ - THÁI LỘC

Hình của Nguyễn Thái Kiên
Tết thầy - Nét đẹp ngày Xuân
Bởi Nguyễn Thái Kiên - Thursday, 5 October 2006, 06:56 PM
 
  Tết Việt
Thứ Sáu, 11/02/2005, 07:12

Tết thầy - Nét đẹp ngày Xuân

Từ bao đời nay, làm con làm cháu và làm trò, ngày Tết, trước hết phải nhớ đến ông bà cha mẹ tức hai bên nội và ngoại, tức bên cha và bên mẹ. Liền sau đó là nhớ đến Thầy, người châm lên ngọn lửa trí tuệ, thắp lên mơ ước và tương lai, hun đúc con người thành tài năng.

Vì thế có câu:
Mùng một là Tết nhà cha
Mùng hai nhà mẹ, mùng ba nhà Thầy

Ba ngày Tết này là thiêng liêng nhất. Mùng bốn có đi đâu thì mới đi, như bạn bè, người yêu, đình đám, du xuân, xóm giềng... Mùng một đầu năm phải là bên nội. Mùng hai Tết vẫn đậm đà, là lúc về thăm quê mẹ, quê ngoại để chúc Tết các bậc bề trên... Mùng ba vẫn còn Tết, vẫn là ngày cho nghi lễ thăm hỏi, chúc mừng. Và ngày này chính là ngày của học trò đi thăm và chúc tết thầy.

Dù thời đi học đã xa, dù ngày nay chỉ còn là bác nông dân chân lấm tay bùn hay ông nọ bà kia, xênh xang mũ áo... Dù là vẫn ngụ giữa làng quê hoặc đã muôn dặm hải hồ, kinh thành, kẻ chợ... người học trò đều thấy mình có nghĩa vụ phải di chúc tết thầy, nói gọn là “Tết thầy”...

Từ trước Tết nhiều ngày, học trò thường đến nhà thầy, đem theo chút lễ vật, có khi là đơn sơ, cây nhà lá vườn, gọi là chút tình nghĩa. Đó là thúng gạo, con gà, có khi chỉ là chục cam, cân đường, đơn sơ hơn, chỉ phong bánh, gói trà ngon... để rồi mùng ba mới đến nhà thầy lễ trước bàn thờ, sau đó là cầu chúc thầy cùng gia quyến an khang thịnh vượng.

Đi tết thầy, nếu còn nhỏ thì có cha mẹ đi cùng. Nếu đã trưởng thành thì đi một mình, hoặc đồng môn, tức là bạn cùng học ngày xưa với mình. Đến nhà thầy phải khăn áo chỉnh tề, nói năng nghiêm trang lễ phép. Thầy cho ngồi mới ngồi. Thầy cho uống nước mới được uống... Nếu thầy sai đi đun nước pha trà thì trò coi như đó là một vinh dự, một phần thưởng vì vẫn được thầy coi mình là học trò cũ như ngày nào...

Càng có học vị, có quyền cao chức trọng, người học trò càng phải khiêm nhường, lễ phép. Có ông quan làm đến thượng thư, tể tướng, râu tóc hoa râm nhưng đi tết thầy, thường bỏ cáng võng ngoài đầu làng, đi bộ vào nhà thầy, đến cửa đã sụp lạy như lạy cha mình. Đương nhiên, thầy râu tóc như bông cước, ra tận cửa đón trò, đầy hỉ hả... và vui vì có người trò ngoan, bõ công mình dạy dỗ. Có những người thầy buồn bã vì có anh học trò hư hỏng, thiếu nhân cách, bất hiếu, bất trung... thầy không nhận đó là học trò của mình nữa, và dù có tết thầy bao nhiêu, thầy cũng quay mặt đi, từ chối...

Tết thầy thành nếp đẹp hàng trăm năm không thay đổi. Nó đã ăn sâu vào ý thức tiềm thức, từ học trò đến cha mẹ học trò... Người xưa nói: “Lễ bạc tâm thành” là thế. Không cần vàng bạc châu báu, chỉ cần chúc chân thành, nhất là nhân cách của một con người sống trong trời đất (nói như Nguyễn Công Trứ). Sang thế kỷ XX, thầy trò, cả con người và nếp sống cũng đã khác.

Nhưng có một điều không khác là tình thầy trò hầu như vẫn được giữ nguyên thuần phong mỹ tục. Thầy vẫn ra thầy, trò vẫn ra trò. Nếu trò có quên thì ông bà hay cha mẹ nhắc nhở, giúp đỡ trực tiếp để trò thực hiện bổn phận làm trò của mình. Gần đây, xã hội ta tiến lên quá nhanh, nhanh hơn mức bình thường theo chúng ta nghĩ, nên có nhiều giá trị văn hoá, tinh thần bị đảo lộn, trong đó không khỏi ảnh hưởng đến tình thầy trò thiêng liêng đã bao đời.

Tết đến, người ta đi lo trả nợ nhau là chính, nhất là trả ơn riêng người nâng đỡ mình, trong đó có cấp trên... bằng nhiều cách, mà tiện nhất là phong bì, mỏng càng hay, vì đựng ngoại tệ.

Đã có dăm ba người xao lãng tình thầy trò, Tết đến, mải vui bè bạn, danh vọng, quyền lực mà thầy xưa chỉ còn cái bóng quá mờ nhạt trong dĩ vãng và trong tâm trí. Đó là điều đáng buồn cũng là điều đáng nói. Một phần nữa, ngày nay chuyện học hành cũng bị thị trường chen vào làm xa rời ý nghĩa vốn có của giáo dục, nhất là giáo dục con người. Lý gì mà quảng cáo rùm beng, học trò được gọi là thượng đế, học thi không đỗ sẽ được trả lại tiền học phí... coi như những chuyện mua bán ngoài cửa ga, nơi cổng chợ... Vì thế mà phong tục Tết thầy, nhất là ở vài ba thành phố, bị mờ nhạt đi phần nào, nhất là càng học lên cao, tình thầy trò càng giảm. Nói thế không phải vơ đũa cả nắm, nhưng là một thực trạng đang lẻ tẻ xảy ra.

Nhắc lại một nét đẹp xưa, một thuần phong mỹ tục của dân tộc, có lẽ cũng không phải là vô ích.

Trên khắp miền đất nước, mỗi mùa xuân về, các nếp sống đẹp lại có điều kiện phục hồi, phát triển. Tục Tết thầy cũng là nét đẹp ấy, cũng đang được phục hồi phát triển ở mọi nơi, chỉ có điều nó gọn nhẹ, không quá rườm rà hay câu nệ như một thời xưa cũ...

Mỗi chúng ta ai cũng có cha mẹ và thầy giáo của mình. Trong đó, cũng nhiều người là thầy giáo... Tết là dịp mỗi trái tim lại hòa chung nhịp đập cùng dân tộc trong tư thế cả nước đi lên cùng xuân mới. Đó là niềm vui không của riêng ai.

Theo báo Xuân Khuyến học và Dân trí

Hình của Nguyễn Thái Kiên
Tâm hồn Việt trong mâm cỗ ngày xuân
Bởi Nguyễn Thái Kiên - Thursday, 5 October 2006, 06:58 PM
 

Tết đến, trong nhà thường có những món ăn cổ truyền: bánh chưng (miền Nam có bánh tét) và tùy theo vùng miền mà có những món ăn khác nhau. Những món ăn cổ truyền rất đơn giản như thịt đông (miền Bắc), thịt kho nước dừa (miền Nam), tré (miền Trung) cứ "đến hẹn lại lên", mang theo một truyền thống và những nét đặc thù của văn hóa Việt.

Bánh chưng là linh hồn của món ăn ngày Tết Việt Nam, một sản vật tôn vinh thành quả lao động của nền văn minh lúa nước. Bên ngoài bánh có màu xanh của cây lá; bên trong có đủ thịt mỡ, hành, đậu xanh..., đều là nông sản. Vào tới miền Trung và miền Nam, chiếc bánh chưng "biến tấu" thành bánh tét, do thiếu lá dong nên được gói bằng lá chuối và từ hình vuông thành hình trụ.

Các món ăn tết của mỗi miền dù khác nhau đến đâu cũng không thoát khỏi mô hình canh - rau - mặn. Miền Bắc ăn nhiều chất béo để giữ ấm. Tết rất lạnh, nên mới có món thịt đông. Dịp Tết cũng là chính vụ su hào, bắp cải, hành... để tạo ra các món ăn đặc trưng cho ngày tết: dưa hành, dưa góp...

Theo bà Nguyễn Dzoãn Cẩm Vân, sự khác biệt của món ăn các vùng là do phong thổ, vị trí địa lý. Chịu ảnh hưởng của gió biển, gió núi, khí hậu khắc nghiệt, các sản vật miền Trung không thể phong phú bằng hai miền Bắc, Nam. Vì vậy, các món ăn có nhiều vị cay, mặn (ăn mặn có thể do tính tằn tiện, còn ăn cay để chống lại cái lạnh cũng như kháng lại mùi tanh của cá). Trong khi đó, món ăn ngày tết của miền Nam nhiều cá, thịt, cây trái. Khi chế biến, món gì cũng được cắt to, thái dày.

Chẳng hạn, món thịt kho ngày tết bao giờ cũng thái vuông lớn thay vì thái lát mỏng như ngày thường. Từ mâm ngũ quả của miền Bắc vào đến miền Nam đã trở thành "mũ quả", ngồn ngộn những hoa tươi, trái ngọt phương Nam. Người Nam còn sắp trái cây theo kiểu chơi chữ, như cầu vừa đủ xài với quả mãng cầu, dừa (vừa), đu đủ, xoài (xài). "Văn hóa cuốn" cũng là đặc trưng của món ăn ngày Tết Nam Bộ.

Món ăn ngày tết còn là biểu hiện cao nhất của tính mỹ học trong ăn uống của người Việt. Ä‚n cỗ tết là thưởng thức một tác phẩm cả bằng tâm hồn lẫn các giác quan. Ngày tết, nhà nhà đều mâm cao, cỗ đầy. Mâm cỗ người Bắc đủ giò, nem, ninh, mọc, 6 bát, 6 đĩa. Thức ăn được xếp lên mâm, chưa ăn đã thấy "sướng". Miếng bánh chưng xanh điểm màu vàng của nhân đậu, màu trắng ngà của thịt mỡ, màu tím của hành. Món dưa góp có màu trắng xanh của su hào, màu trắng ngà của giá đỗ, màu xanh của hành hoa, màu đỏ của cà rốt, màu vàng hươm của miếng đu đủ...

Ngay đến bát nước mắm nho nhỏ cũng được "trang trí" bằng màu trắng của những tép tỏi và điểm xuyết thêm vài cánh ớt đỏ tươi. Dù vậy, nếu có dịp thưởng lãm món ăn Huế ngày Tết mới thấy hết cái rực rỡ của sắc màu. Món ăn Huế không chỉ đẹp bởi chén bát mà cả trong cách sắp xếp thức ăn, mỗi bát mỗi đĩa là một tác phẩm nghệ thuật rực rỡ.

Cái ăn ngày Tết không chỉ đơn thuần là vấn đề ẩm thực. Nó còn là văn hóa, là quốc hồn quốc túy. Nhân dịp năm mới, cũng nên bàn lại một chút về cái hay cái đẹp của món ăn ngày Tết để thêm yêu quý, trân trọng những giá trị truyền thống của dân tộc.

Theo Thanh Niên

Hình của Nguyễn Thái Kiên
Phóng sự ảnh: Hoa Đào Hà Nội
Bởi Nguyễn Thái Kiên - Thursday, 5 October 2006, 08:36 PM
 

TTO - Trong tiết trời se lạnh, Hà Nội vẫn rộn rã không khí đón năm mới. Những cành đào hồng đỏ thấp thoáng khắp các ngõ phố. Tết về, đằm thắm, rung rinh...trên những chuyến xe hoa từ ngoại ô vào Hà thành.

VŨ PHƯỚC

Hình của Nguyễn Thái Kiên
Những phong tục đẹp ngày Tết
Bởi Nguyễn Thái Kiên - Thursday, 5 October 2006, 08:54 PM
 

Mỗi nơi trên thế giới đều có những phong tục đón Tết khác nhau, có phong tục tồn tại và phát triển, có phong tục lại mất đi theo đà tiến hoá của xã hội. Riêng phong tục đón Tết của dân tộc ta bắt nguồn từ những điển tích, huyền thoại xa xưa xem ra có vẻ huyền bí. Nhưng nếu chúng ta tìm hiểu kỹ sẽ thấy nó mang nhiều ý nghĩa thực tế.

Tục cúng Ông Táo

Thường lệ vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch, từ thành thị đến thôn quê, khắp nơi trong nước ta dân chúng làm lễ tiễn đưa Ông Táo. Người xưa cho rằng ngày ấy vua Bếp lên chầu Trời để tâu việc làm ăn, cư xử của gia đình trong năm. Qua đó nói lên tình cảm và lý trí của nhân dân ta đối với công việc bếp núc, nhằm đánh giá cao việc chăm sóc dinh dưỡng của đời sống con người và đánh giá lại việc ăn ở của mình trước khi bước sang năm mới.

Tục dựng cây nêu

Một cổ tục của ngày Tết Việt Nam là tục dựng cây nêu. Cây nêu là một cây tre dài chừng 2,5 đến 3m dựng trước sân nhà vào tối đêm giao thừa. Trên ngọn nêu có buộc một cái bùa bát quái vẽ trên giấy đỏ, một chiếc giỏ con đựng trầu cau và những ống sáo, những miếng kim khí lớn nhỏ... Khi có gió va chạm vào nhau chúng phát ra những tiếng leng keng nghe rất vui tai. Ở đây chỉ riêng cái việc dựng nêu trong sân để đón ông bà tổ tiên về ăn Tết cùng gia đình đã nói lên được tính dân tộc, thể hiện tình cảm "uống nước nhớ nguồn". Giỏ trầu cau treo ở cây nêu nói lên ý nghĩa lân bang, tình nghĩa xóm làng (miếng trầu là đầu câu chuyện, miếng trầu mời khách đến thăm nhà) và lòng yêu âm nhạc thể hiện ở những nhạc cụ mua vui đầu xuân treo trên ngọn nêu.

Tục chơi hoa kiểng

Hoa là linh hồn, hoa là cảnh sắc thiên nhiên trang điểm cho đời, nếu thiếu hoa thì còn gì là ngày Tết nữa. Vì vậy chưng hoa kiểng ngày Tết là một nhu cầu làm đẹp của dân tộc ta có truyền thống từ ngàn xưa, hơn nữa nó còn mang đậm nhiều ý nghĩa.

Trên bàn thờ gia tiên cắm những bông vạn thọ, trường xanh... với sắc hoa vàng rực, đã nói lên được điều ước mong của mọi người là năm mới khoẻ mạnh và trường thọ. Chưng cây hoa đào, hoa mai, với sắc đỏ thắm của đào và những cánh mai vàng rực là những ước mơ hy vọng về sự đổi mới của mọi người, của gia đình, của Tổ quốc - thể hiện phong cách lạc quan, tự tin.

Tục chưng mâm ngũ quả

Ngày Tết, ngoài các thức ăn cúng ông bà tổ tiên trên bàn thờ nhất thiết phải chưng mâm ngũ quả. Chuối là cái nền cho mâm ngũ quả, thứ đến là bưởi hoặc phật thủ, hai loại này bắt buộc phải có. Ba loại còn lại thì tuỳ loại quả có ở mỗi vùng khác nhau. Nhưng chung lại, mâm ngũ quả là những loại trái cây chứa nhiều chất dinh dưỡng, đáp ứng đủ cho nhu cầu hoạt động của con người. Vì vậy, chưng mâm ngũ quả ngày Tết là một ý nghĩa nói lên ước vọng của gia đình bước sang năm mới được no đủ.

Tục chúc Tết

Tết Nguyên đán là những ngày trang trọng, vui tươi nhất của dân tộc ta. Cũng là dịp để mọi người có điều kiện thăm hỏi lẫn nhau: con cháu thăm hỏi cha mẹ, chú bác, ông bà; học trò thăm hỏi thầy cô; gặp mặt bạn bè chúc tụng...

"Mồng một là Tết nhà cha": Sáng mồng một Tết, sau khi lễ gia tiên, người con (hoặc dâu hoặc trưởng) mời cha mẹ ngồi vào hai ghế tựa ở giữa nhà, các con cháu đứng theo thứ tự ngôi thứ: anh chị trước, các em sau, sau cùng là các cháu, mọi người đều mừng thọ và tế sống ông bà, cha mẹ bằng hai lạy và hai vái (người chết thì bốn lạy, bốn vái). Ông bà cũng mừng tuổi các con cháu bằng phong bao được gói bằng giấy hồng điều.

"Mồng hai nhà mẹ": Sáng mồng hai Tết, cha mẹ dẫn đoàn con cháu về quê ngoại chúc tết. Tuần tự lễ tưởng niệm tổ tiên: mừng thọ ông bà ngoại theo nghi thức ở nhà cha, mừng tuổi bà con thân thích bên ngoại và được mừng tuổi lại. Cả hai gia đình cùng chuyện rò vui vẻ và ăn cỗ đầu xuân, càng làm cho tình nghĩa hai gia đình thêm thắm thiết.

"Mồng một là Tết nhà cha, Mồng hai nhà mẹ..." - điều đó chứng tỏ ông cha ta rất coi trọng chữ hiếu, chọn hai ngày đầu năm để tưởng nhớ công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ hai gia đình nội, ngoại vì hiếu thảo là gốc của đạo đức gia đình.

"...Mồng ba Tết thầy": Công ơn cha mẹ sinh thành, dưỡng dục, công ơn thầy giáo dục tư cách đạo đức, mở mang trí tuệ cho mình, vì thế "công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy" đều được nhân dân ta coi trọng.

Tục chúc Tết là một nét đẹp văn hoá thể hiện được lòng quan tâm lẫn nhau, chung vui xuân và đem tặng nhau ý lành, lời ngọc và niềm hy vọng tốt đẹp cho nhau.

Sau cùng những kiêng cữ ngày Tết như: cha mẹ nhịn quở mắng, anh em nhịn cãi nhau... là những ý muốn tốt lành, nhân ái thể hiện nếp sống văn minh và gia đình có văn hoá.

Phong tục ngày xuân là những nét đẹp của đất nước, của dân tộc luôn sống mãi với thời gian. Ðây là những phong tục đẹp của nhân dân ta đã coi trọng ân sâu và thái độ ứng xử tinh tế có nghĩa, có tình trong đời sống.

Xuất hành

Đầu năm mới, người Việt còn có tục xuất hành. Xuất hành là đi ra khỏi nhà trong ngày đầu năm để đi tìm cái may mắn cho mình và gia đình. Trước khi xuất hành, người ta phải chọn ngày, giờ và các phương hướng tốt để mong gặp được các quý thần, tài thần...

Thường thường, người ta theo các hướng tốt, xuất hành đi lễ chùa, đền hoặc đi chúc Tết các bậc huynh trưởng, thân quyến hay bằng hữu. Đối với nhà nông ngày xưa, đầu năm mới xuất hành còn để chiêm nghiệm thời tiết. Vào những ngày đầu năm, khi mặt trời mọc người ta đi ra khỏi nhà xem chiều gió thổi, người ta có thể đoán được năm mới hên hay xui, chẳng hạn:
- Gió Nam: chỉ đại hạn
- Gió Tây: chỉ cướp bóc loạn lạc
- Gió Tây Nam: chỉ bệnh dịch tả
- Gió Bắc: chỉ được mùa vừa phải
- Gió Tây Bắc: chỉ được mùa đỗ, đậu
- Gió Đông: chỉ có lụt lớn....

Nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người mình còn có tục bẻ lấy một "cành lộc" để mang về nhà lấy may, lấy phước. Đó là tục "hái lộc". Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành đề, cành si, cây xương rồng... là những loại cây quanh năm tươi tốt và nẩy lộc. Tục hái lộc ở các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới. Cành lộc này thường đem về cắm ở bàn thờ Tổ Tiên.

Thú chơi câu đối Tết

Mỗi năm, khi Tết đến, từ thành thị tới các làng quê, cùng với việc mua sắm hàng Tết, dựng cây nêu, người ta không quên mua dăm quả cau, bao chè tới xin câu đối cụ Nghè, cụ Cử.

Câu đối thờ viết trên giấy đỏ dán ở cột, ở cửa nhà nội dung thường bày tỏ lòng biết ơn của cháu con đối với tiên tổ:

Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ
Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên
(Năm có bốn mùa, mở đầu bằng mùa xuân;
Người ta có trăm tính nhưng tính hiếu thảo là cần trước hết)

Ở làng trang Đông Hồ câu đối trên đã được cải biên chút ít và đưa vào bộ tranh chủ treo ở bàn thờ gia tiên, hai bên là chữ Phúc, chữ Thọ và đôi câu đối:

Từ thời xuân tại thủ
Ngũ phúc thọ vi tiên

Những chữ Hán được trang trí cách điệu: một bên là con rồng, một bên là con phượng trên nền giấy điểm xuyết hoa, lá, chim muông.

Những câu đối này thường kèm theo mấy chữ đại tự cũng viết trên giấy đỏ treo thành bức hoành: "Ấm hà tư nguyên" (Uống nước sông nhớ đến nguồn); "Ðức lưu quang" (Ðức chan hoà ánh sáng).

Dịp Tết còn có các câu đối tức cảnh xuân của các bậc văn hay chữ tốt, cũng được viết trên giấy đỏ treo ở cổng.

Vậy tục treo câu đối Tết có từ bao giờ? Sách xưa có kể phong tục của người dân Bách Việt, trong ngày Tết Nguyên đán theo bùa gỗ có hình hai vị thần Thần Ðồ và Uất Luỹ treo hai bên cửa ngõ. Ðó là hai vị thần sống dưới gốc đào lớn dưới núi Ðộ Sóc chuyên cai quản đàn quỷ, hễ quỷ nào "phá rào" đi làm hại dân thì thần hoá phép trừ đi. Sau này việc treo bùa gỗ "Ðào phù" được thay bằng câu đối hai bên cửa.

Ðời sống hấm khá dần, mỗi người, tuỳ hoàn cảnh, gửi gắm vào câu đối những ý tứ, những niềm vui cùng ước vọng vào một năm mới đang đến. Vào thế kỷ 15, thú chơi câu đối Tết đã trở nên phổ biến, khắp Kinh kỳ, từ dinh thự của quan lại tới các tư gia, đâu đâu cũng treo câu đối Tết. Lại có cả cấu đối nói về nghề nghiệp dán ở cửa hàng, cửa hiệu. Tương truyền, vào một năm, sắp tới giao thừa, vua Lê Thánh Tông ra phố phường xem dân ăn tết. Thấy một nhà không treo câu đối, vua vào hỏi, biết đó là nhà một người thợ nhuộm vợ goá, con trai đi vắng, vua bèn lấy giấy bút và viết.

Thiên hạ thanh hoàng giai ngã thủ;
Triều đình chu tử tổng ngõ gia.
(Xanh vàng thiên hạ đều tay tớ
Ðỏ tía triều đình tự cửa ta)

Cùng với chữ Hán, nhiều danh sĩ nước ta còn viết câu đối Tết bằng chữ Nôm. Ðầu thế kỷ 20, Nguyễn Khuyến (1835-1909) đã sử dụng tài tình chữ viết của dân tộc, đưa cả ca dao, tục ngữ, thành ngữ vào câu đối. Trong 67 câu đối hiện còn của cụ thì 47 câu đối Nôm. Ðây là cảnh Tết của một nhà nghèo mà lòng vân phơi phới sắc xuân khi giao thừa sắp đến:

Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa
Sáng mồng một, rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.

Hiểu rõ vần xoay của tạo hoá, cụ ước ao.

Có là bao, ba vạn sáu ngàn ngày, được trăm cái
Tết ước gì nhỉ, một năm mười hai tháng, cả bốn mùa xuân.

***

Gần 10 năm nay, người Hà Nội đã quen thuộc với vẻ đẹp cổ kính của chữ Nho, chữ Nôm qua bút pháp của các nhà Nho: Bùi Hạnh Cẩn, Lê Xuân Hoà, Nguyễn Văn Bách, Trần Lê Văn... Hàng ngày cùng với việc bốc thuốc dạy học nghiên cứu các vị còn say xưa, viết chữ chân, thảo, lệ... tặng cho những người yêu Nôm thư pháp. Nét bút của các vị, ngày thường đã cứng cỏi, khí phách nay giữa ánh xuân của đất trời càng thêm mềm mại, tài hoa. Và hàng năm, như đã thành lệ đẹp vào dịp Tết, tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám lại tổ chúc triển lãm thư pháp, thư hoạ. Dịp này một số nhà nho lại được mời đến viết câu đối tết. Vẻ xưa khơi dậy đã thu hút hàng ngàn người trong và ngoài nước tới chiêm ngưỡng.

Người khách đầu tiên bước vào nhà trong năm mới sẽ đem lại may mắn hoặc rủi ro cho gia đình trong cả năm đó. Vì quan niệm đó mà người ta thường chọn người xông nhà cho gia đình mình, mời những người có "vía" mau mắn, hoặc hợp tuổi với gia đình, thường thì là đàn ông(hổng hiểu vì sao nữa  ) Xông nhà vào đêm giao thừa, hoặc sáng mồng một tết. Mặc cho khách ào đến cái rồi lại đi nhưng mâm cỗ để tiếp khách xông nhà bao giờ cũng được Mama chuẩn bị cực kỳ thịnh soạn(vì là người đem cả một năm may mắn đến cho gia đình cơ mà)

Tư Liệu - VNRK

Hình của Nguyễn Thái Kiên
Tết Việt xưa
Bởi Nguyễn Thái Kiên - Thursday, 5 October 2006, 08:55 PM
 

Mỗi độ Tết đến, xuân về, khắp nơi trên đất nước Việt Nam nô nức hội hè, nhộn nhịp đón xuân. Những hình ảnh này được ghi lại vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và ngày nay chúng ta không còn gặp nữa. Song, trong ký ức cùa mỗi người Việt Nam, không khí, cảm xúc về Tết của những ngày xưa ấy vẫn còn vẹn nguyên, để rồi một ngày ta chợt nhận ra: cái ngày xưa ấy đã lâu lắm rồi.

Vót tre (Hà Nội - 1952)Một người phụ nữ mua gà chuẩn bị cho ngày Tết (Hà Nội - 1952)

Mua bán hoa đào giáp Tết 1953Chợ hoa Tết tài phố Hàng Lược (Hà Nội - 1952)

Vo gạo - Thiếu nữ ngoại thành Hà Nội (1920)Gói bánh chưng những ngày giáp Tết năm 1950 (Hà Nội)

Gia đình quan lại ở Huế sum họp Tết (cuo

Gia đình quan lại ở Huế sum họp bên mâm cổ Tết (cuối thể kỷ XIX)

Theo Heritage

Hình của Nguyễn Thái Kiên
Ý nghĩa của lễ hội Tết dân tộc
Bởi Nguyễn Thái Kiên - Thursday, 5 October 2006, 08:56 PM
 
TTO - Việt Nam coi trọng tiếng Tết, vì nó đã trở thành ngày quan trọng nhất trong năm. Theo Hán tự, Tết được biến âm từ tiết, có nghĩa gốc là cái “mấu tre”. Rồi dần dà chuyển nghĩa thành sự tiếp nối của 2 giống cây, hai khúc, hai đoạn cây. Từ nghĩa này, nó tiếp tục mở rộng để chỉ thời điểm tiếp xúc giữa hai khoảng thời gian phân chia theo thiên văn – khí tượng trong năm.

Thuở sơ khai, tuy còn sống bằng nghề săn bắt, hái lượm chưa bị thời tiết chi phối nhiều, nhưng con người đã có ý niệm về thời gian. Ngưỡng mộ vẻ đẹp kỳ ảo của vầng trăng, dân du muốc thuở xưa đã biết lợi dụng nguồn sáng dịu dàng đó để băng qua hoang mạc.

Lâu dần, họ tích lũy kính nghiệm bằng cách nhìn trăng thay đổi hình dạng để phân biệt và nhận ra quãng thời gian đã trôi qua. Đó là cách xác định mảnh trăng non đầu tiên ban đêm cho đến khi mảnh trăng non ấy lại in trên bầu trời ban ngày, gọi là “một trăng”. Và con trăng lúc ấy kéo dài 29 – 30 ngày.

Hiện tượng một tháng đã xuất hiện trong tâm thức loài người và nó trở nên quan trọng đến nỗi người đạo Hồi gọi trăng là thần Alaka. Dấu ấn ấy còn lưu tồn đến ngày nay trong nhiều lá quốc kỳ của các nước như: Malaysia, Pakistan, Turkey, Singapore, Tunisia, Algeria, Comoros v.v...

Khi con người bước sang thời kỳ trồng trọt, chăn nuôi thì nhu cầu xác định đúng thời gian các mùa để phát triển nghề nông đã trở thành bức thiết. Thế là cùng với vầng trăng, năm âm lịch ra đời. Mỗi năm âm lịch cũng 12 tháng nhưng với 355 ngày. Và khi so với khí hậu lại hụt mất 11 ngày. Cứ ba năm sẽ hụt mất một tháng. Điều này gây trở ngại lớn cho nhà nông. Vì vậy, âm lịch thuần túy ít được sử dụng. Để khắc phục tình hình trên, các nhà khoa học đã giải quyết bằng hai cách: một là dùng dương lịch (sáng kiến của người Ai Cập và La Mã cổ đại), hai là đặt thêm tháng nhuận để cân bằng chênh lệch so với chu kỳ khí hậu. Đây là phương thức của người Trung Hoa, Hy Lạp, Do Thái và Babylon...

Thế là ta có năm nhuận. Cứ 3 năm thì đến một năm nhuận. Năm nhuận có 13 tháng, dài 385 ngày. Tuy nhiên, việc làm có tính chất sửa chữa này chưa được các quốc gia thống nhất.

Dương lịch xuất hiện từ thời cổ La Hy. Một năm thời tiết được tính bằng 365 ngày Đ và người ta gọi lịch này là lịch Julyus. Cứ 4 năm lại đến một năm nhuận. Năm nhuận được cộng thêm 1 ngày vào tháng 2. Đến thời Phục hưng được gọi là lịch Gregorius dùng cho tới ngày nay. Bởi dương lịch là thành quả cải tiến của các nhà khoa học phản ánh đúng quy luật vận hành của thiên nhiên. Sở dĩ âm lịch và dương lịch cùng tồn tại là nhằm đáp ứng yêu cầu bảo tồn tập quán về thời gian và để ghi nhớ thời gian xảy ra những sự kiện lịch sử, những ngày lễ Tết của dân tộc.

Lễ Tết

Việt Nam coi trọng tiếng Tết, vì nó đã trở thành ngày quan trọng nhất trong năm. Theo Hán tự, Tết được biến âm từ tiết, có nghĩa gốc là cái “mấu tre”. Rồi dần dà chuyển nghĩa thành sự tiếp nối của 2 giống cây, hai khúc, hai đoạn cây. Từ nghĩa này, nó tiếp tục mở rộng để chỉ thời điểm tiếp xúc giữa hai khoảng thời gian phân chia theo thiên văn – khí tượng trong năm.

Ví dụ một năm chia làm 24 tiết (lập xuân, vũ thủy, kinh trập, xuân phân, thanh minh, cốc vũ, lập hạ, tiểu mãn, mang chủng, hạ chí, tiểu thử, đại thử, lập thu, xử thử, bạch lộ, thu phân, hàn lộ, sương giáng, lập đông, tiểu tuyết, đại tuyết, đông chí, tiểu hàn, đại hàn). Sau đó tiết chuyển thành nghĩa “ngày lễ, cúng lễ, vui mừng”. Đây chính là nguồn gốc trực tiếp của Tết như Tết khai hạ, Tết Thanh minh, Tết Đoan ngọ, Tết Trùng cửu v.v... Tết đã trở thành rất đặc biệt là ngày đầu năm, nên dân gian mới nói ăn Tết, đi Tết, chơi Tết và chúc Tết. Nó là kết quả của sự rút gọn và biến âm từ xuân tiết trong tiếng Hán và thành Tết Nguyên đán trong tiếng Việt.

Tết Nguyên đán

Theo gốc Hán, nguyên là đứng đầu, là cả. Đán là buổi sáng. Do đó Tết Nguyên đán là Tết buổi sáng đầu năm. Gọi như thế bởi buổi sáng ngày mồng 1 tháng Giêng, là thời gian mới mẻ nhất trong năm. Năm mới chính thức bắt đầu. Người ta cúng lễ gia tiên, chúc mừng năm mới, mừng tuổi ông bà, chúc thọ v.v...

Tết Nguyên đán là thời điểm thuận lợi nhất để nghỉ ngơi, cây cối đâm chồi nảy lộc, khí hậu ấm áp, quang đãng và đẹp đẽ nhất. Con người đã thu hái mọi thành quả lao động, trở nên thư thái tâm hồn, tinh thần vui vẻ, cử chỉ lịch thiệp, cởi mở hơn về phong cách, tô điểm hơn về dung nhan. Nghĩa là tất cả trong ngoài đều mới. Hiện tượng đó khiến buổi sáng đầu năm trở nên quan trọng, thiêng liêng. Ai cũng tin tưởng, mơ ước mọi việc trong năm mới sẽ diễn ra tốt đẹp, may mắn như buổi sáng đầu năm. Vì thế, người ta cữ kiêng làm điều xấu để khỏi xui xẻo cả năm.

Tết Táo quân

Táo, tiếng Hán có nghĩa là “bếp”. Táo quân hay ông Táo là người quản lý bếp núc, còn gọi là “Vua bếp”... Theo truyền thuyết nước ta, xưa có hai vợ chồng vì nghèo quá nên phải bỏ nhau, mỗi người đi một nơi kiếm sống. Người vợ may mắn gặp được chồng giàu. Năm nọ, vào ngày 23 tháng Chạp, người chồng cũ đi ăn xin vô tình vào nhà vợ cũ. Vợ cũ nhận ra chồng, cảm thương quá bèn đem cho nhiều thức ăn, tiền bạc. Sự việc đó khiến người chồng mới nghi ngờ, đay nghiến vợ. Người vợ cảm thấy khó xử và oan ức trong lòng bèn nhảy vào lửa mà chết. Người chồng cũ đau xót cũng nhảy vào lửa chết theo. Biết là vợ bị oan, người chồng mới hối hận không kịp cũng đành nhảy vào lửa chết luôn. Vì cả ba đều thể hiện lòng trung nghĩa nên trời phong cho làm vua bếp.

Vì thế, hàng năm cứ vào 23 tháng Chạp, dân gian đều làm lễ Táo quân tiễn ông Táo về trời bằng cá chép, để Táo quân dâng sớ tâu mọi sự ở trần gian. Truyền thuyết này thể hiện nét đẹp trong sinh hoạt của người Việt.

Đêm trừ tịch

Tịch, gốc tiếng Hán nghĩa là đêm. Trừ nghĩa là qua đi, bỏ đi. Như vậy, trừ tịch là đêm của năm cũ qua đi. Tuy nhiên, theo nguyên tắc thuận ngữ, dân ta vẫn gọi là đêm trừ tịch chứ không ai gọi trống là trừ tịch.

Còn một thuyết khác cho rằng trừ tịch là đêm trừ khử tà ma để cầu điều tốt đẹp cho sáng năm mới.

Giao thừa

Giao, gốc tiếng Hán nghĩa là thay nhau, hoặc nối tiếp, trao đổi lẫn nhau. Thừa là đảm nhận, thi hành hoặc thừa kế, thừa tiếp... Gọi giao thừa vì theo quan niệm tín ngưỡng, lúc 12 giờ đêm 30 tháng Chạp – thời điểm nối tiếp giữa năm cũ và năm mới, là lúc hai vị thần cai quản trần gian (còn gọi là ông Hành Khiển) một cũ một mới bàn giao và tiếp nhận công việc của nhau. Vào dịp này, nhân dân hay làm lễ thiên địa để cầu mong các vị thần ấy ban cho may mắn và hạnh phúc trong năm mới. Lễ thường đặt lộ thiên vì người xưa quan niệm rằng các vị thần ấy rất bận không tiện vào nhà.

Ngày nay còn dấu ấn để lại trong việc giao ban giữa cũ và mới trong ngành với nhau. Và Tết là thời điểm để chúng ta suy gẫm và làm cho cuộc sống tốt đẹp và có ý nghĩa hơn. Dù âm hay dương lịch thì tháng ngày vẫn trôi theo đúng quy luật vận hành của đất trời. Chúng ta hãy chúc cho nhau mọi điều tốt đẹp, may mắn và hạnh phúc nhất.

Tư liệu

Hình của Nguyễn Thái Kiên
Mâm ngũ quả ngày Tết
Bởi Nguyễn Thái Kiên - Thursday, 5 October 2006, 08:59 PM
 

Dù ở thành phố hay nông thôn, dù nhà khá giả hay nghèo khó, trên bàn thờ ngày Tết cổ truyền của mọi gia đình nước ta đều có mâm ngũ quả để thờ cúng tổ tiên.

Quan niệm về mâm ngũ quả ở mỗi vùng, mỗi địa phương và mỗi hoàn cảnh cũng khác nhau; có khi chỉ gồm hai, ba loại quả, nhưng cũng có khi tới hàng chục loại khác nhau.

Mối liên hệ giữa ngũ quả và ngũ hành

Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là 5 trạng thái vật chất cấu tạo nên vũ trụ.

Kim màu trắng, mộc màu xanh, thủy màu đen, hỏa màu đỏ, thổ màu vàng. Mâm ngũ quả cũng lung linh năm sắc màu đó.

Các quả thường được bày vào dịp Tết là: Bưởi, chuối, hồng, cam, quýt, quất, xoài, táo, đào, na (mãng cầu), đu đủ, dưa hấu... Tất cả đều là sản phẩm được tạo nên bởi sự giao hòa của trời đất (càn khôn), là kết quả lao động của con người.

Trong những ngày Tết, ai cũng muốn tỏ lòng biết ơn trời đất tổ tiên nên bày mâm ngũ quả thờ cúng để "báo" tổ tiên những thành quả của năm qua, mong muốn năm mới sẽ thành công hơn.

Khi chưng mâm ngũ quả, người cao niên thường chọn các quả có ý nghĩa như: Quả bưởi tròn ý nói sự đầy đủ, sung túc; Quả na nhiều hạt ngụ ý sự sum vầy đông con cháu; Quả quất tượng trưng cho người quân tử; Quả đu đủ là sự cầu mong của những gia đình nghèo được "đủ ăn".

Theo các nhà dược liệu và thầy thuốc Đông y thì mâm ngũ quả cũng là một tập hợp của nhiều vị thuốc.

Tác dụng chữa bệnh của một số loại quả trong mâm ngũ quả

* Quả bưởi (quả bòng): người Thái gọi là cọ phúc, thuộc họ cam quýt - Rutaceae.

- Lá bưởi có tác dụng chữa cảm (dùng cùng một số lá khác để nấu nồi thuốc xông chữa cảm sốt).

- Vỏ bưởi dùng chữa đầy chướng bụng, bí tiểu.

- Vỏ hạt bưởi có chất pectin để cầm máu.

- Múi bưởi giúp giải khát, dùng tốt cho người tiểu đường.

- Hoa bưởi có hương thơm đặc biệt, dùng ướp trà và một số thực phẩm.

* Đu đủ: còn có các tên là phiêu mộc, phan qua thụ, mắc hung.

Quả chín có tác dụng bổ dưỡng, rất tốt cho trẻ em và người cao tuổi, người mới khỏi bệnh.

Đu đủ xanh chứa chất papain có tác dụng phân giải tế bào, giúp nấu thịt chóng mềm. Rễ đu đủ dùng làm thuốc cầm máu.

Hoa đu đủ hấp đường phèn làm thuốc chữa ho cho trẻ em khàn tiếng.

Ở châu Phi, dân gian còn dùng lá đu đủ để chữa khối u.

* Quả hồng: tên khác là thị đinh.

- Tai quả hồng còn có tên Thị đế dùng chữa khí nghịch - nấc.

- Thị sương là chất đường tiết ra từ quả hồng; dùng chữa đau rát họng, khô họng.

- Thị tất là nước ép từ quả hồng xanh, dân gian dùng chữa cao huyết áp.

* Hồng xiêm: (hình như di thực từ Thái Lan nên có tên này). Tên khác: Tầm lửa, Sacoche, Saboche. Tên khoa học: Sapota achras.

- Nhựa hồng có tác dụng kích thích tiêu hóa.

- Vỏ quả chữa tiêu chảy

* Chuối: là loại quả giàu dinh dưỡng, tốt cho người cao tuổi và trẻ em bị táo bón. Không dùng chuối cho người tiểu đường. Chuối hương phối hợp bột lòng đỏ trứng gà dùng chữa trẻ suy dinh dưỡng.

Như vậy, mâm ngũ quả là tâm sự gửi gắm của mỗi gia đình, nói lên lòng biết ơn trời đất, tổ tiên, ước muốn đầy đủ và sung túc, hòa hợp như năm sắc màu của thiên nhiên trong ngũ hành. 

Theo Sức khỏe & ĐơÌ€i sống

Hình của Nguyễn Thái Kiên
Tết Táo quân
Bởi Nguyễn Thái Kiên - Thursday, 5 October 2006, 09:00 PM
 
Tết Táo quân vào ngày 23 tháng Chạp - người ta coi đây là ngày "vua bếp" lên chầu Trời để tâu lại việc bếp núc, làm ăn, cư xử của gia đình trong năm qua.

Cứ phiên chợ 23 tháng Chạp, mỗi gia đình thường mua 2 mũ ông Táo, 1 mũ bà Táo bằng giấy và 3 con cá chép làm "ngựa" (chuyện cá chép hoá rồng) đế Táo quân lên chầu trời. Sau khi cúng trong bếp, mũ được đốt và cá chép được mang ra thả ở ao, hồ, sông...

Theo truyền thuyết Việt Nam, xưa có hai vợ chồng nghèo khổ quá, phải bỏ nhau, mỗi người một nơi tha phương cầu thực. Sau đó, người vợ may mắn lấy được chồng giàu. Một năm, vào ngày 23 tháng Chạp, đang đốt vàng mã ngoài sân thì thấy một người ăn xin bước vào, nhận ra chính là chồng cũ nên người vợ động lòng, đem cơm gạo, tiền bạc ra cho.

Người chồng mới biết chuyện, nghi ngờ vợ. Người vợ đâm khó xử, uất ức lao vào bếp lửa, tự vẫn. Người chồng cũ đau xót, cũng nhảy vào lửa chết theo. Người chồng mới ân hận, lao vào lửa nốt ! Trời thấy cả ba người đều có nghĩa nên phong cho làm "vua bếp".

Thế gian một vợ một chồng
Chẳng như vua bếp hai ông một bà 
(Ca dao)

Theo Báo Ninh Thuận