Con người và dân số
Người Hàn là một dân tộc duy nhất và nói một ngôn ngữ. Với những đặc tính riêng về thể chất, người Hàn được coi là con cháu của một vài bộ lạc Mông Cổ từ vùng Trung à di cư đến bán đảo Triều Tiên.
Vào thế thế kỷ thứ 7, rất nhiều quốc gia của bán đảo lần đầu tiên đã được thống nhất dưới vương quốc Shilla (57 trước CN đến 935 sau CN). Sự đồng nhất đã giúp cho người Hàn Quốc hầu như không bị vướng vào những vấn đề dân tộc và duy trì được tình đoàn kết vững chắc.
Cuối năm 2000, dân số của Hàn Quốc ước tính vào khoảng 47.640.000 người, với mật độ 476 người/km2. Dân số của CHDCND Triều Tiên ước vào khoảng 22.253.000.
Dân số Hàn Quốc tăng má»—i năm khoảng 3% trong những năm 60, và giảm xuống còn 2% má»—i năm trong thập kỷ tiếp theo. Ngày nay, tỉ lệ gia tăng dân số đã dừng lại ở mức 0,6% và ước tính sẽ giảm xuống còn 0,06% vào năm 2020.
Một khuynh hướng đáng chú ý trong nhân khẩu học của Hàn Quốc là dân số đang già đi theo từng năm. Con số thống kê vào năm 1999 cho thấy 6,9% dân số của Hàn Quốc ở độ tuổi 65 trở lệ và đến năm 2002, con số này là 7,9%.
Trong thập kỷ 60, cơ cấu dân số của Hàn Quốc tạo thành một hình kim tự tháp, với tỉ lệ sinh và tuổi thọ tương đối ngắn. Tuy nhiên ngày nay cấu truc này tạo thành một hình chuông với tỉ lệ sinh thấp và tuổi thọ trung bình kéo dài. Tính tới năm 2020, tỉ lệ daâ số trẻ (dưới độ tuổi 15) sẽ giảm xuống, trong khi dân số già (trên độ tuổi 65) sẽ chiếm khoảng 15,15 tổng số dân.
Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng trong những năm 60 và 70 đã kéo theo sự di chuyển dân cư từ nông thôn ra thành phố, đặc biệt là Seoul, làm cho dân số tăng nhanh tại những khu vực này. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, số dân di chuyển ra vùng ngoại ô của Seoul đang tăng dần lên.