|
Bánh tôm Hồ Tây
Chẳng biết bánh tôm Hồ Tây có từ bao giờ. Chỉ biết có người Hà Nội
phiêu bạt làm ăn mãi tận Sài Gòn hay tận Australia, tận Pháp, ngày về
thăm quê vẫn tìm đến hỏi "bánh tôm Cổ Ngư".
Gọi là bánh tôm Hồ Tây, nhưng nơi làm và bán thứ bánh độc đáo này
lại nằm trên bờ hồ Trúc Bạch, cách biệt hẳn với Hồ Tây bằng đường Thanh
Niên rộng thoáng. Nghe nói ngày trước, ở đây chỉ có vài cái quầy lụp
xụp, đơn sơ vừa bán bánh tôm vừa bán bia hơi, trời mưa khách chả biết
chạy đâu, đành chịu đứng giữa trời cho mưa xối. Nay bánh tôm Hồ Tây
được phục vụ trong một nhà hàng bề thế mấy trăm chỗ ngồi, thấp thoáng
trong những tán cây si, cây đa râm mát lộng gió.
Cách thức làm ra cái bánh tôm có vẻ như đơn giản. Bột mỳ, thêm ít
bột ủ chua, ít bột nở, ít bột ca-ri nghệ, hòa với nước cho sền sệt. Tôm
tươi cắt râu, rửa sạch. Chảo mỡ nóng già, quệt bột lên khuôn, gắn một
hai con tôm, thả vào. Cái bột, cái mỡ gặp nhau, chỉ sau mấy phút reo hò
mừng rỡ trong chảo là cái bánh tôm đã nổi lên, chờ một lúc cho bánh
già, vớt ra để ráo mỡ rồi đem ra phục vụ khách ngay. Nói thì đơn giản
thế, nhưng nghề này cũng có lắm công phu. Nào lượng bột bao nhiêu,
lượng nước ít nhiều, giữ tôm tươi, lửa lò nóng sao cho bánh không non
qu� c�ng kh�ng bị ch�y đen... Ấy là bí quyết của nhà hàng. Có thế mới
giữ được khách, mới bán được hàng.
Cũng cần kể đến nước chấm bánh tôm, nó cũng gần giống nước chấm
bún chả vậy, phải đủ các vị chua, cay, mặn, ngọt. Nhưng chỉ vừa đủ, để
chúng hòa vào nhau, thành một thứ nước chấm ngon lành đến độ uống suông
cũng hết cả bát. Nhà hàng cũng phải có công thức nước chấm riêng, bao
nhiêu năm trời vẫn pha một cách ấy.
Bánh tôm được bán theo suất. Một suất mấy cái cũng được tính cả.
Có người khen cái suất ở đây khéo quá, ăn hết miếng cuối cùng là không
muốn ăn thêm nữa. Thường thì người ta cắt hai suất vào một đĩa (vì
khách cũng thường đi có đôi). Một đĩa bánh, kèm một đĩa rau sống đặt
giữa bàn ăn, mỗi người một bát nước chấm riêng để trước mặt. Nhìn vào
bàn ăn món bánh tôm thấy được sự hài hòa của mầu sắc. Cái bánh vàng rộm
điểm con tôm đỏ tươi nổi bật trên nền men sứ trắng. Rau xà lách xanh
nõn nà, rau thơm xanh thẫm. Trong bát nước chấm nổi những miếng đu đủ
thái mỏng trắng xanh chen với dăm lát ớt đỏ mọng. Cái cách người sành
ăn là thế.
Lại nói đến cách ăn. Khách cầm đũa gắp một miếng bánh tôm, kèm
mấy lá rau xanh thả vào bát nước chấm. ÃÂừng mải chuyện, cái bánh dầm
lâu trong nước chấm nhũn ra, mất ngon. Bây giờ gắp cái bánh lên, bỏ cho
gọn vào mồm đừng để giây nước chấm ra mép. Thế... và bạn sẽ cảm thấy
được cái giòn tan của bột, cái béo của mỡ, cái bùi của tôm, cái mát của
rau, cái giòn ngọt của đu đủ, thấy được sự hài hòa chua-cay-mặn-ngọt
đang tan trên đầu lưỡi. Và bạn sẽ chỉ nói được một lời, rằng: - Ngon!
Bánh tôm Hồ Tây - một thứ quà giản dị - cũng góp phần làm nên bản sắc riêng cho đất Thăng Long nghìn năm văn hiến. _________________ Bún cá
Trong các món quà Hà Nội, có một món có thể ăn ở mọi chỗ mọi nơi,
vào nhiều thời điểm: sáng, trưa, chiều, tối, vừa sang trọng lại vừa dân
dã, hợp với khẩu vị nhiều người, đó là món bún.
Nhưng lại phải nói, quà bún Hà Nội cũng không thể có món gì phong
phú bằng. Có thể liệt kê: bún thang, bún chả, bún nem, bún mọc, bún ốc,
bún riêu cua, bún măng, bún bung, bún dọc mùng chân giò lợn, bún dọc
mùng sườn ninh, bún riêu nhót trứng cua và bún cá!
Mười mấy món bún vừa kể, chỉ riêng bún riêu nhót trứng cua và bún cá thì đến mùa mới có.
Cuối tháng ba âm lịch, trái nhót chín đỏ vườn, cũng là lúc cua
đồng sắp đẻ. Người ta hái nõn cây khoai nước, rồi bắt con cua chửa, gạt
lấy trứng của nó, ốp quanh trái nhót, mở từng chiếc nõn khoai ra gói
lại, thả vào nồi canh cua sau khi đã giã lọc, đun sôi và nêm gia vị.
Nồi canh cua đồng có nhót trứng cua ấy, tuy vẫn gọi riêu cua, nhưng
chan vào tô bún, sắc mầu, mùi vị khác hẳn các loại riêu cua không có
nhót.
Còn bún cá thì lại phải đợi đến mùa rau cần. ÃÂó là vào hai tháng
một, chạp gần Tết Nguyên đán, cũng có khi kéo sang tháng giêng âm lịch.
Như hồng thì phải đợi cốm, thịt gà phải có lá chanh, thịt chó
phải kèm riềng cùng mơ tam thể, gỏi cá phải cặp với lá đinh lăng, võng
cách... Ông cha ta gọi những thứ đó là "hèm". Hèm này thức nọ, nó như
một thứ "tình duyên" trời định hay người định, cũng không tách rời nhau
được. Ấy thế, rau cần nhất thi�t phải kết cùng bún cá. Bún cá mà thiếu
rau cần, chẳng khác mâm cơm dọn ra, bên này có anh bên kia thiếu chị,
sẽ chông chênh, lệch lạc, đểnh đoảng hẳn đi!
Cá để làm bún cá, thông thường là cá quả, miền nam kêu là cá lóc.
Con cá quả từ 3 lạng đến nửa cân, sau khi đánh vảy, chặt vây, người nội
trợ lấy dao thật sắc lọc lấy hai bên lườn, thái mỏng vừa phải, rồi cho
vào chảo mỡ rán (chiên) giòn cháy cạnh. Xương và đầu cá cho vào một
chiếc nồi khác đổ nước hầm kỹ và nêm gia vị, có thêm một chút dọc hành,
rau thìa là thái nhỏ, đó là thứ nước để chan.
Rau cần mua về nhặt bỏ rễ, rửa sạch, cũng đem thái khúc chừng 2,5
cm, rồi đem xào tái. Mỗi tô bún khi ăn, người ta cho một lượng bún cần
thiết, sau đó bỏ thêm hai phần ba cần xào tái, một phần ba cần sống,
rải những miếng cá rán cháy cạnh lên trên và múc nước chan ngập vào, ăn
ngay thật nóng. Tôi cam đoan nhìn tô bún cá bốc khói thơm ngào ngạt, ai
cũng phải thèm. Và đến khi đưa vào miệng, cái vị giòn và ngậy của cá,
cái vị thơm thanh khiết của hai thứ cần tái, sống, cái vị ngọt đậm lừ
của món nước dùng từ xương và đầu cá tiết ra... Chẳng ai ăn chỉ một tô
mà thấy đã!
Bạn đọc ai có dịp ghé qua Hà Nội đúng mùa cần, xin hãy tìm hàng bún cá ăn chơi cho biết.
_________________ Bún ốc Phủ Tây Hồ
Ở Hà Nội có rất nhiều món ăn ngon rất nổi tiếng và đã đi vào danh
mục ẩm thực của những món ăn đặc trưng như: chả cá Lã Vọng, cơm rang
thập cẩm phố Hàng Dầu, phở, nộm bò khô, nem rán phố Mai Hắc ÃÂế, ốc hấp
thuốc bắc Quảng Bá... Nhưng mỗi khi xa Hà Nội tôi lại nao lòng thèm
muốn với nỗi nhớ cồn cào một món ăn rất dân dã, rất đặc trưng và đặc
biệt là rất ngon, đó là món bún ốc ở phủ Tây Hồ. Vâng! Quả đúng là
không chỉ riêng tôi, mà rất nhiều người, nhất là những ai đã sinh ra và
lớn lên ở thủ đô, hoặc là du khách tới Hà Nội đã từng có dịp thưởng
thức món ăn này, đều không dễ gì quên được. ÃÂã từng ăn bún ốc tại nhiều
nơi ở Hà Nội, ở Hải Phòng và cả TP Hồ Chí Minh nhưng chẳng đâu có thể
sánh kịp vị ngon đạt tới độ tinh xảo như ở phủ Tây Hồ.
Ngày trước ốc dùng để làm bún người ta vớt luôn dưới lòng Hồ Tây,
bởi lẽ ốc ở dưới rất nhiều và nhiều đến nỗi một người cào tiếng đồng hồ
là được cả gần tạ ốc rất béo và to. Bây giờ Hồ Tây ít ốc nên người ta
phải đi thu mua ốc tận nhiều nơi mà chủ yếu là ốc bươu vàng hay ốc
nhồi.
ÃÂể làm tăng thêm vị ngon của bát bún ốc, các chủ nhà hàng thường
rất kỹ càng trong khâu chọn ốc. á»Âc phải thật b�o v� kh�ng được ng�m quá
lâu. Ngay cả bún cũng vậy, những nhà hàng ở đây chỉ đặt duy nhất với
một làng nghề sản xuất, đó là: Phú ÃÂô ở huyện Từ Liêm bởi lẽ sợi bún
rất nhỏ, săn, không nhão và khi chan nước ăn vẫn giòn và dẻo mà lại
không nát. Hơn thế nữa, bún lại trắng và được chế biến hợp vệ sinh.
Không ít gia chủ còn đặt hẳn ở làng bún sản xuất bún bằng gạo tám thơm
có pha chút gạo nếp cái hoa vàng để tăng thêm hương vị cho bát bún ốc.
Gia vị để chế biến bún ốc bao gồm rất nhiều thứ như: cà chua, tai chua,
giấm bỗng rượu, mỡ, tiêu, mì chính, muối, đường, ớt... và các loại rau
sống, gia vị ăn kèm như: xà lách, tía tô, kinh giới, húng láng, mùi,
rau chuối non thái mỏng.
Cách làm bún ở đây cũng chỉ đơn giản như mọi nơi nghĩa là ốc luộc
lên sau đó khều lấy cái bỏ vào xào săn cùng mỡ và gia vị mắm, mì chính.
Nước ốc làm nước dùng chan bún sau khi đã được ninh sôi bỏ cà chua và
các gia vị đặc trưng của món nước dùng bún ốc. Trong nước dùng chan bún
ốc có bỏ xương ống lợn ninh cùng để nước thêm ngọt. Ngoài ra một chút
bí quyết "làng nghề" mà ta không dễ gì biết được càng làm tăng thêm nét
đặc sắc, nét riêng của món bún ốc ở đây.
Khi khách ăn gọi bún ốc người ta chỉ bỏ ốc vào bát, bỏ bún đã
chần qua nước sôi rồi chan nước dùng là ăn được. Một đĩa rau sống hấp
dẫn, một đĩa ớt chưng đỏ bày trên bàn sẽ làm tăng thêm cảm giác ngon
nhưng cũng rất cay, mà nếu bỏ nhiều ớt thì cay đến bỏng cả lưỡi.
Nơi đây có tới mấy chục nhà hàng bán bún ốc suốt con đường nhỏ
dẫn vào phủ Tây Hồ và nhà hàng nào khách cũng ra vào tấp nập. Người Hà
Nội, khách thập phương đi lễ ở đây đều muốn ăn bún ốc nơi này. Cũng có
thể bún ốc ở đây là đặc biệt và những lều lán như kiểu quán gió cùng
phong cảnh trữ tình thơ mộng của Hồ Tây càng làm khách thích thú, lưu
luyến, ngon miệng và nhớ mãi... Chẳng thế mà nhiều người bạn tôi đã
từng có nhiều ký ức về món bún ốc ở phủ Tây Hồ và hiện đang sinh sống,
học tập tại nhiều nước trên thế giới đều vẫn có một nỗi nhớ thường trực
về phủ Tây Hồ, trong muôn vàn nỗi nhớ quê hương.
Cháo khuya Hà Nội
Hà Nội có nhiều con đường, ngõ phố vẫn thường thức rất khuya. Trên
các phố này, đã lâu hình thành nên những quán xá, những dãy hàng ăn,
hoặc thành cả một khu ăn uống phục vụ cho người hay ăn đ�m. Ở ng� Cấm
chỉ phố Tống Duy Tân, hàng quán mọc san sát nhau, dài suốt đoạn phố,
bán cả ngày lẫn đêm, lúc nào cũng rộn người. Cũng lại có nhiều phố khác
như phố Mai Hắc ÃÂế, phố Lý Quốc Sư, phố Quán Thánh - Hàng Bún... những
hàng ăn chỉ mở về đêm, dọn ra từ lúc chiều tối, bán đến tận 2-3 giờ
sáng hoặc đến rạng sáng hôm sau thì nghỉ, trả lại hè đường cho sinh
hoạt ban ngày.
Hàng ăn khuya bán đủ thứ món. Từ món chân gà, dạ dày, tiết canh,
lòng lợn... cho nhân dân; rồi đến bao nhiêu là món ăn no, nào phở bò,
phở gà, miến lươn, miến cua, bún ngan, cơm rang, mì xào... và cả mì vằn
thắn quen thuộc cũng có mặt nơi này.
Nhưng trong mớ thực đơn phong phú ấy, dường như món cháo là phổ
biến hơn cả, hầu như ở các phố về đêm nào cũng đều có bán. Và chỉ cháo
thôi nhưng cũng được chế biến nhiều thứ: cháo sườn, cháo óc, cháo tim,
bầu dục (cật), cháo gà, cháo cá quả... Cháo khuya Hà Nội có thú vị
riêng, dường như hơi khác so với những món cháo vốn quen thuộc ở Sài
Gòn.
ÃÂầu phố Trần Xuân Soạn có một quán bán duy nhất món cháo trai và
thường xuyên đông khách, từ chiều tối cho đến tận khuya. Nếu như ở Sài
Gòn có những món cháo hải sản bình dân như món cháo nghêu, cháo sò
huyết thì ở đây có món cháo trai khá lạ - cháo nấu với thịt con trai.
Người địa phương sành món cháo trai, khoe rằng: "Do đặc điểm sông nước
từng vùng có khác nhau nên cùng một loài hải sản vỏ cứng, nhưng nghêu
sò ở miền nam thường không ngọt thịt bằng con trai ngoài này". Sài Gòn
nấu món cháo nghêu, cháo sò huyết thì thịt của chúng, sau khi tách khỏi
vỏ, được bỏ vào nấu cùng với cháo, chất ngọt thịt của nghêu, sò hòa hẳn
vào trong bát cháo. Ngược lại món cháo trai Hà Nội thì cách làm có
khác, thịt trai để riêng như một món dùng ăn với cháo. Con trai khá to,
cho nhiều thịt, được ninh lên lấy nước nấu cháo, còn thịt của chúng thì
cắt nhỏ, xào lên thật thơm cùng với gia vị được nêm nếm vừa miệng. Cháo
múc ra bát xong mới để thịt trai đã xào lên làm mặt cùng với hành,
tiêu, ớt bột, khách tự trộn đều và ăn cùng với quẩy.
Ở góc Quán Thánh - Hàng Bún có rất nhiều hàng cháo óc, cháo tim,
cháo bầu dục, cháo cá quả... Cứ trời vừa hơi sụp tối là hàng được dọn
ra, nối thành một dãy dọc vỉa hè. Dưới ánh sáng mờ của chiếc bóng đèn
tròn mắc dã chiến, khách ngồi ăn quanh những băng ghế sơ sài. Ấy vậy
nhưng tối n�o cũng đ�ng. Ch�o tim, cật, rồi cháo óc, cháo cá... vốn
không lạ, tuy nhiên có khác là cháo ở Hà Nội thường được nấu thật đặc
chứ không hay nấu loãng như phổ biến ở các món cháo của Sài Gòn. Gạo
đem nấu cháo có một phần là gạo đã ngâm, giã sẵn, hạt nhỏ gần như tấm,
đem nấu thành cháo, để lửa cho sôi đến lúc chừng như quánh đặc lại, gần
giống một dạng bột ăn. Bát cháo vẫn khá ngon nhưng có vẻ thiếu chất
nhựa cháo quen thuộc của cháo nấu từ hạt gạo nguyên đến lúc thật nhừ.
Gánh cháo khuya bán lâu năm và nhiều người vẫn cho rằng rất ngon
là gánh cháo "quát" ở phố Lý Quốc Sư. Bà "quát" bây giờ tóc đã bạc, vẫn
ngồi bán ở cái nơi quen thuộc cũ mặc dù đã có thêm một quán cháo lịch
sự ở phố Nhà Thờ gần đó. Các cô cháu gái vẫn phụ bà bưng bê. Và, có lẽ
vì quá đông khách nên bà vẫn nay quát này mắng nọ, khiến trở thành một
đặc điểm mà mọi người thuận miệng gọi tên khi nhắc đến gánh cháo của
bà: cháo "quát". Quả thực, cũng chỉ là bát cháo gà nhưng ăn ở hàng bà
"quát" thì cực ngon. Cháo được nấu từ hạt gạo nguyên, không giã, nấu
đến thật nhừ nên nước cháo lềnh lên vì nhựa cháo, và cũng không quánh
đặc lại như dạng cháo bột. Bát cháo thơm phảng phất mùi hành hoa, mùi
lá tía tô, mùi các loại gia vị, lại hấp dẫn thêm bởi những miếng gà ta
dai và ngọt thịt...
Mấy chị hàng cháo ở phố Quán Thánh bảo cháo khuya bán được nhất
vào mùa hè, trung bình vào mùa thu, và thường thưa thớt người ăn vào
mùa đông. Hà Nội bây giờ đã bắt đầu se lạnh và hương hoa sữa bay thơm
nức. Những người làm đêm, những thanh niên đi chơi về muộn... như quen
lệ, vẫn ghé vào hàng làm một bát cháo nóng ấm lòng.
Giò, chả Ước Lễ
Người dân Ước lễ tự hào làng mình xưa nổi tiếng khắp Hà ÃÂông, là
một trong sáu làng được vua Tự ÃÂức sắc phong "mỹ tục khả phong" và nổi
tiếng với nghề gia truyền đặc sản: nghề làm giò lụa, chả quế.
Thôn Ước Lễ (xã Tân Ước, Thanh Oai, Hà Tây) cách Hà Nội khoảng 30
km về phía tây nam. Thôn chỉ rộng khoảng 1 km2, với gần 450 hộ dân.
Người Ước Lễ không nhớ rõ nghề làm giò, chả quê mình có từ khi nào, chi
biết rằng tiếng chày giã thịt nghe đã quen thuộc khi họ còn tấm bé. Anh
Nguyễn ÃÂăng Hùng - trưởng thôn Ước Lễ cho biết: "Có lẽ nghề gia truyền
của thôn chúng tôi có từ hơn 100 năm nay. Từ thời cụ tôi, nghề giã thịt
làm giò lụa, chả quế đã rất thịnh". Trước đây, hầu như năm nào người
dân Ước Lễ cũng phải ăn Tết muộn, bởi cứ giáp Tết, tất cả mọi người đều
tập trung làm hàng, cung cấp giò chả cho khách khắp mọi nơi. Rằm tháng
Giêng mới thực sự là những ngày Tết của họ.
Giò Ước Lễ khác hẳn với giò của những nơi khác. "Xanh ở vỏ ngoài,
hồng ở nhân trong, có nhiều lỗ nhỏ" - ông Hoàng Ước, năm nay đã 72 tuổi
nói. "Muốn có giò ngon phải có thịt ngon. Thịt lợn tươi, nạc, lọc bỏ
hết gân cho vào cối giã. Trước tiên là giã dập, chỉ cần giã một tay,
sau khi thịt nát thì thúc đều hai tay để thịt không bị bắn ra ngoài,
rồi cho nước mắm, mì chính vào giã tiếp cho đến khi thịt quánh lại. Cối
giã giò phải là cối đá, nặng, chày và thớt thái thịt đều được làm bằng
gỗ nghiến rất rắn chắc.
Khi giã xong, gói giò trong lá chuối sạch, buộc chặt bằng lạt để
luộc. Nghệ thuật xếp lá chuối gói giò khá công phu: lớp lá non trong
cùng (để giò có mầu xanh), rồi xếp từng lớp tiếp thật khít, chắc chắn
để cuốn được một khối tròn đều. Miếng giò ăn ngon, giòn, không bị bã.
ÃÂặc biệt là giò Ước Lễ không bao giờ pha bột, có lẽ vì vậy mà luôn được
khách hàng tín nhiệm.
Làm chả quế cũng lắm công phu. Thịt làm chả quế cũng là thịt nạc,
giã nhuyễn rồi cho một lượng bột quế vào trộn đều. ÃÂắp nguyên liệu trên
vào một ống bương to (bây giờ người ta dùng ống nhôm) - người Ước Lễ
gọi là "giằng chả", rồi nướng trên bếp than hồng, thỉnh thoảng lại quết
một lượt hỗn hợp mỡ và phẩm mầu thực vật cho đến lúc chín. Chả quế Ước
Lễ vừa ngon, ngọt, thơm mùi quế đặc trưng rất hấp dẫn.
Sống được bằng nghề không phải dễ. Nếu như có một số làng nghề
truyền thống đã bị thất truyền, thì đến tận bây giờ, người dân Ước Lễ
vẫn tự hào là họ có thể sống bằng nghề truyền thống của mình. Chỉ có
điều, họ không làm giò lụa, chả quế tại chính quê hương của mình mà đã
đem nghề đi nơi khác kiếm sống. Chính vì vậy mà thôn Ước Lễ hiện chỉ
còn khoảng gần 200 hộ dân sinh sống. Hà Nội là nơi có nhiều người Ước
Lễ làm ăn. Nhà hàng Việt Hương (phố Huế) là nơi mà khách sành ăn ở Thủ
đô hay lui tới. Cửa hàng giò chả Hồng ÃÂạt (chợ Thành Công), cửa hàng
nhà ông Bính Cường (Ngã tư Vọng), cửa hàng của anh Quang (chợ Mai
ÃÂộng)... là những nơi tiêu thụ hàng nhanh và nhiều nhất. Mỗi ngày, các
cơ sở này bán được hơn 20, 30 kg hàng gồm đủ loại. Ngoài giò lụa, chả
quế, người ta còn làm cả giò bò, giò gà, chả bìa, chả cốm...
Chả cá Lã Vọng
Chả cá ngày nay đã có ở một số thành phố lớn, nhưng cái "chất" đặc
sản này thì truyền thống Thăng Long - Hà Nội vẫn có phong cách, bản sắc
ri�ng. Ở đ�u tr�n đất nước mình, chẳng có các bàn tay của mẹ, của chị
tần tảo, khéo léo làm ra những món ăn vừa ngon vừa đẹp. Món "hải vị"
chả cá đất Hà thành càng đòi hỏi bàn tay chế biến tinh xảo.
Những bữa ăn tươi trong gia đình ấm cúng, những bữa bạn bè một
thuở lang thang trên phố, thết nhau món chả cá, đối với người Hà Nội
trở nên một kỷ niệm không bao giờ quên.
Mấy cửa hàng chả cá Hà thành, từ đời ông, đời cha đến đời con,
còn nhớ đến bao kỷ niệm, từ thời các sĩ phu, văn nhân cuối thế kỷ
trước, đến các nhà văn, nhà thơ, nhà soạn nhạc, họa sĩ đã đến thưởng
thức món ăn Hà Nội này. Một cách ăn tinh tế của cụ Nguyễn Tuân, một cái
khề khà của Văn Cao, một cái nhỏ nhẹ của Vũ Trọng Phụng, một cái trầm
tư của Tô Ngọc Vân. Mấy cửa hàng may mắn đã được các nghệ sĩ một thời
"chiếu cố đến". Món chả cá khá cầu kỳ, chuẩn bị công phu. Vì nó mang
nét văn hoá ẩm thực rất riêng Hà Nội.
Chả cá tốt nhất là làm bằng cá chiên hoặc cá lăng. Hai loài cá này thường sinh sống, vẫy vùng trên sông Hồng.
Cá chiên hoặc cá lăng cỡ từ 2 kg trở lên còn tươi, làm sạch nhớt,
đặt lên thớt, người làm cá dùng tay trái giương vây ngực vuông góc với
thân cá, dùng dao mỏng cắt đúng điểm gốc vây ngực cho tới xương sống,
lạng phanh thịt, lọc xương sống cho đến đuôi, lật thân cá sang bên kia,
cũng làm như thế, ta được hai miếng thăn cá. ÃÂặt miếng thăn cá lớp da
cá sát với thớt, cắt từng miếng ngang thớ, bản to, mỏng. ÃÂầu, xương và
da để nấu canh chua. Còn miếng thịt cá được ướp gia vị, mì chính, hạt
tiêu, nước riềng và nước nghệ, ít nước mẻ loãng (nếu không có nước mẻ
thì dùng dấm bỗng). Thời gian ướp ít nhất cũng từ một đến hai giờ.
Trước khi nướng, tẩm ít mỡ nước để nướng cá cho khỏi xác. Cho cá vào
que tre làm thành từng gắp chả, rồi nướng chả vàng hai mặt. Cũng có thể
dùng vỉ nướng chả (cần phết lớp mỡ lợn vào vỉ nướng chả để cá khỏi
dính). Nướng bằng than hoa đỏ hồng, miếng cá chín vàng là được. Xếp một
lớp cá với một lớp thìa là, hành rau thơm, rau mùi, từng lớp cho đến
đầy bát to.
Bữa tiệc bắt đầu, bát cá được bày trên bàn. Dùng mỡ nước vừa rán
đun thật sôi giội lên cá (món này phải ăn nóng). Nước chấm phải chế
biến kỳ công, là mắm tôm hảo hạng, vắt chanh, một chút ớt cay, giầm nhẹ
phảng phất cà cuống cho dậy mùi hấp dẫn. Món rau quả thật quan trọng
đối với món chả cá. Những lát chuối xanh, ruột trắng nõn mang nhựa
chát, đi cùng những lát khế thái mỏng xanh như ngọc, chua nhức lưỡi.
Lạc rang bùi thơm. Khay rau sống phong phú những sung, mơ, ngổ,
thơm, đinh lăng, cọng hành nõn, miếng gừng vàng. Cạnh khay rau là đĩa
bún. Bún lá, bún con. Bún xếp thành vỉ nhỏ, trắng muốt, mát lành cùng
rau, cùng gia vị cay, cùng thịt cá thơm nướng chả. Nếu làm bữa ăn tươi
ở nhà, có một cách nướng chả khác là thịt cá nướng vàng được ướp với
thìa là, hành, rau thơm, rau mùi xếp vào từng bát nhỏ. ÃÂổ mỡ đun sôi
trong lẩu, từng thìa cá có rau thơm nhúng vào lẩu mỡ. Ai thích ăn béo
ngậy thì nhúng lâu, ai không thích ăn béo thì nhúng mỡ vừa phải. Nước
chấm cũng như trên. �n cùng với lạc rang, chuối chát, khế chua, rau
sống.
Cuối cùng là món canh chua. Sau khi ăn toàn món khô háo nước,
thưởng thức thêm nửa bát bún canh chua sôi sùng sục, càng ngon miệng.
Thế là ta đã thưởng thức đầy đủ hương vị của chả cá chiên, cá lăng.
�n chả cá, phải từ từ ít một để thưởng thức vị thơm của cá nướng,
vị ngọt đậm đà của cá chiên, cá lăng, vị chát của chuối, vị chua của
khế, vị thơm các loài rau gia vị, mùi đặc biệt của cà cuống, mắm tôm,
chanh, ớt cùng nhâm nhi ly rượu quê nhà.
Chả cá, món ăn vừa sang trọng vừa thi vị mà dân Hà thành ưa
chuộng, mà các nhà văn, nhà thơ bao thế hệ vừa thưởng thức vừa viết bao
điều ca ngợi, đến muốn... thèm. Chả cá Lã Vọng của Hà Nội cũng đã xuất
hiện cả ở thành phố Hồ Chí Minh, nhất là ở các quận 1, quận 8, quận Phú
Nhuận. Nhiều khách nước ngoài khi đến Việt Nam, thưởng thức món đặc sản
này đã phải trầm trồ, thán phục nghệ thuật ẩm thực đến tinh tế, cầu kỳ
của người Việt.
|