1. Tổng quát
Từ
phần 1, với một cách phân tích đơn giản ta thấy là 12 con giáp liên hệ
đến cách gọi tên con vật trong tiếng Việt qua 3 chi Mão/Mẹo/mèo,
Ngọ/ngựa và Tý/Tử/chuột. Các phần đầu 1, 2 có mục đích là giới thiệu
tổng quát về tên 12 con giáp và đặt nền tảng cho các phần sau chi tiết
hơn (phần 3 về sau bàn về tên mỗi con giáp). Người viết cố tránh dùng
các thuật ngữ để cho dễ đọc và dễ cảm nhận hơn. Tiếng chuông cảnh tỉnh
mọi người về nguồn gốc phi-Trung-Hoa của tên con giáp
thật ra đã được giống lên từ những công trình khảo cứu ngôn ngữ học của
vùng Đông Nam àtừ thập niên 1930, bởi các tác giả nước ngoài, đáng lẽ
phải từ các nghiên cứu khảo cổ hay lịch sử và văn hoá dân gian của dân
địa phương mới ‘hợp lý’ và ‘hợp tình’. Nhưng có thể vì những cuộc chiến
tranh tàn khốc trong khu vực này trong cả thế kỷ qua nên không cho ra
bao nhiêu kết quả chính xác. Thêm vào đó là lịch sử rất lâu đời của
vùng Đông Nam ÃÂ, cùng với nhiều đợt giao lưu văn hoá qua đường biển
cũng như trong đất liền, làm cho quá trình nghiên cứu không được mấy dễ
dàng.
Điều
đầu tiên là lập bảng so sánh tên 12 con giáp của các ngôn ngữ trong
vùng như sau. Để ý một nước có thể dùng nhiều bảng con giáp(1) (VN có
ít nhất là 3 bảng) và sự thay đổi nghĩa của một số chi như rồng trở nên
con naga (ảnh hưởng của Ấn Giáo, một loài vật huyền thoại nửa voi nửa
rắn, có khi nửa người nửa rắn, nửa người nửa tiên…), gà trở thành con
chim (theo Tây Tạng, gà thuộc vào loài chim – gà là con vật duy nhất có
cánh trong 12 con thú), sự phân biệt giống đực hay cái (gà trống, dê
đực …) thay vì tổng quát, có cả sâu bọ(2), heo thành voi theo một cách
ghi 12 con giáp của Thái Lan, bị ảnh hưởng tiếng Phạn Nam/Pali. Pali
hay tiếng Phạn Nam (phía Nam) có gốc là tiếng Phạn Cổ (classical
Sanscrit) nhưng đơn giản hơn, các kinh điển của Phật Giáo đầu tiên được
chép bằng tiếng Pali và truyền từ Sri Lanka đến Miến Điện (Myanmar),
Thái Lan, Kampuchia, Việt Nam (phần nhỏ) … thuộc phái Tiểu Thừa
(Theravada) so với phái Đại Thừa (Mahayana) truyền từ TH qua. Các ngôn
ngữ dân tộc thiểu số được dùng để so sánh hầu tìm ra các dây liên hệ
như tiếng Saek đang có hiểm hoạ diệt vong, thuộc dòng Thái-Kadai và chỉ
dùng trong vài làng bên Lào và Thái Lan. Tiếng Yay cũng giống như tiếng
Dioi cùng thuộc dòng Thái. Tiếng Ahom đã từng hiện diện ở Assam, bây giờ không còn nữa và chỉ dùng trong các hoạt động tôn giáo địa phương. Dân tộc Ahom có gốc từ tỉnh Vân Nam, di dân xuống miền Đông Nam àChâu và Bắc Miến Điện.
.
2. Bảng so sánh các tên 12 con giáp àChâu
.
.
.
.
(A)
thoạt xem tên 12 con giáp bằng tiếng Thái (tên gọi chính thức/formal
names) ta thấy rất gần với nghĩa chúng qua tiếng Việt ! Thí dụ như
tý/tí/tử là chuat3 hay chuat3 (3 nghĩa là falling
tone, thanh điệu thứ 3 đi xuống gần như dấu huyền tiếng Việt, trong
phần này không ghi thanh điệu cho đơn giản) - dạng chuat3 rất gần với
chuột tiếng Việt – tuy nhiên, chuat lại không có nghĩa con chuột trong
tiếng Thái (mà là nuu). Điều này cho thấy rằng tiếng Thái đã mượn từ các tên tiếng Việt,
cũng như các dạng khan (kễnh, cọp – năm cọp chính thức gọi là bpee khan
nhưng thông thường hơn là bpe seuua), roong1 (rồng – năm rồng chính
thức gọi là bpee ma roong1 hay thông thường hơn là bpee nguu yai, nguu
là con rắn), rakaa1 (gà – năm gà chính thức gọi là bpe rakaa1 nhưng
thông thường hơn là bpee gai) …v..v.. Chính các tên gọi của Thái là chiếc cầu nối giữa tiếng Việt, Cổ Việt, Mường, Hán Việt
: cũng như Cha luu5 là một dạng khác của k-lu (biến âm k-ch/gi- như Bắc
Kinh/Beijing, kông/klông/giang đã ghi lại nhiều lần trong các bài viết
trước – xem bài “Nguồn gốc nhóm từ sông Cửu Long†cùng tác giả), klu
hay tlu (Mường) chính là tru/trâu tiếng Việt, kbây, krobây (Khme)….
Trâu, bò không có dạng này trong tiếng Thái hiện tại, năm sửu chính
thức gọi là bpe cha luu5 so với cách gọi bình dân là bpee wuaa, wuaa
hay khoh chỉ con trâu, bò … Còn biến âm kl-s còn thấy khi so sánh tiếng
Mường và Việt : klu-sửu (trâu), klong-sông, khláng-sáng3 (Mường Poọng,
khlau/krau-sau (Mường Hung), khlt/klăt-sắt, kru-sâu (Mường Uý Lô) …. Có
khi âm –l- mất hẳn để cho các dạng khang-sang, khao-sao4 …Trở lại với
các cách gọi tên 12 con giáp trong cùng một ngôn ngữ, cách gọi chính
thức được người viết xếp vào loại ‘bác học’ (BH) vì cần phải học mới biết rõ ràng so với cách gọi ‘bình dân’ (BD)
qua các tên con thú. Sự phân hoá thành ra ít nhất hai loại văn chương
BH và BD không chỉ xẩy ra qua khung cửa của tên 12 con giáp, nhưng còn
làm cho vốn từ Hán Việt và Việt thêm phong phú.
(B)
theo bài “A note on the origin of the Chinese duodenary cycle†của
Jerry Norman đăng trong cuốn “Linguistics of the Sino-Tibetan area –
the state of the art†1985, bài này ghi lại và bàn thêm về các dữ kiện
từ bài “L’origine du cycle des douzes animaux au Cambodge†viết từ năm
1935 bởi George Coedès.
(C)
Theo tài liệu đăng trên mạng Internet của Wikipedia, chủ đề Chinese
Astrology – tên các tháng của dân tộc Hung (Hunnish) hay dân tộc
Thổ-Bungari (Turkic Bulgarian) có nhiều trùng hợp với tên 12 con giáp –
có lẽ đây là các dân tộc ở xa TH nhất trên phương diện địa lý mà vẫn
dùng hệ thống này (so với Nhật, Lào, Thái Lan, Viêt Nam…) và có thể qua
con đường buôn bán tơ lụa (the Silk Road). Tiếng Hung hay Thổ-Bungari
không liên hệ gì đến tiếng TH hay ngữ hệ Hán-Tạng. Các tên tháng theo
thứ tự có nghĩa là con chuột, trâu, cọp … đến con heo rừng cũng như thứ
tự và tên 12 con giáp TH.
(D)
Người viết chưa từng thấy bảng tiếng Việt này – cho tới khi đọc cuốn
“Encyclopaedia of Asian Civilisation†– NXB Louis Frédéric (1984), Éditions Jean-Michel Place. Chú ý các từ thử HV dùng để gọi chuột, khôi để gọi Thân…
(E)
Theo tác giả William G. Boltz trong bài viết “The Old Chinese
Terrestrial rames in Saek†(in trong cuốn “Studies in the Historical
Phonology of Asian Languages†chủ biên William G. Boltz và Michael C.
Shapiro, NXB John Benjamin, 1991) thì các ngôn ngữ Lu và Pu-Yi (đều
thuộc dòng Thái) có các dữ kiện sau (tóm tắt lại với các số đứng sau
chỉ thanh điệu)
.
.
3. Các giả thuyết dựa trên ngôn ngữ học
Nguồn gốc tên 12 con giáp đã được nhiều học giả ngoại quốc nghiên cứu :
George Coèdes (1935)
sau khi so sánh tên 12 con giáp(5) của Xiêm và Kampuchia đã đi đến kết
luận là chúng có nguồn gốc tiếng Mường Cổ. Ộng đã viết nhiều về các ảnh
hưởng của nền văn minh Ấn Độ trong vùng Đông Nam ÃÂ, tuy nhiên không đưa
ra một liên hệ gì về tên 12 con giáp với Ấn Độ.
Học giả TH Li Fang-Kuei (1945)
chuyên khảo về tiếng Thái(6) đã phân tách thập can và thập nhị chi qua
các ngôn ngữ Thái và đưa ra nhận định rằng tiếng Thái vẫn còn duy trì
một số phụ âm Hán Cổ như pl-, zng-, sm- tuy không nhất quyết xác định
được nguồn gốc tên 12 con giáp từ đâu ra.
Sau đó là các công trình của học giả Paul K. Benedict, vào năm 1967
ông đề nghị thập nhị chi có nguồn gốc Nam-Thái (Austro-Thai)(7) trong
bài viết về Văn Hoá và Ngôn Ngữ Nam-ÃÂ, và dựa trên các liên hệ của âm
ngựa (Ngọ), chó (Tuất) và heo (Hợi). Năm 1975, ông
viết cuốn “Austro-Thai Language and Culture†khai triển các ý từ những
năm trước. Ông đưa ra các dữ kiện của các ngôn ngữ địa phương để đi đến
kết luận rằng tiếng TH đã mượn một số tiếng Nam-Thái như trứng, gà,
ngựa, yên (ngựa), cỡi ngựa, voi, ngà, lợn (heo), thỏ, trâu bò … nuôi
lấy thịt, ong, mật, gạo, mía, muối …v…v… và điều đáng chú ý và oái ăm
là sau đó, các ngôn ngữ vùng Đông Nam àđã phải mượn lại các từ ngữ mà
mình cho TH mượn trước kia ! Thí dụ như các từ trà, giấy … Cũng theo
Benedict thì có những tính chất đặc thù bắt nguồn từ văn hoá Nam-Thái
như phép tính 12 con giáp mà nhiều người tưởng là của TH. Ông ghi nhận
rằng chữ ngựa trong tiếng Lê (Li, dân bản xứ đảo Hải Nam) là nga/ka và
là một bằng chứng là mã và ngựa có liên hệ, sau khi so sánh và đề nghị
dạng âm cổ phục hồi của ngựa trong tiếng Inđônêsia và Mã lai là
*t’anga, tác giả đề nghị âm cổ Nam-Thái là *sanga. Cuối cùng kết luận
bằng cách đưa ra một giả thuyết rằng có thể một ngôn ngữ cổ Nam-Thái đã
từng hiện diện trong vùng Đông Nam ÃÂ, mà ông gọi là AT-x và đã cho TH
mượn nhiều từ căn bản.
Tác giả Jerry Norman (1985)
cũng dựa vào các dữ kiện từ tiếng Thái, Hán Việt, Việt và TH, Mường để
chứng minh rằng tên 12 con giáp có nguồn gốc từ phương Nam
(Austroasiatic, Nam ÃÂ). Ngoài 3 từ Ngọ, Tuất, Hợi, Norman(8) còn liên
hệ 4 từ Sửu, Thìn, Mùi, Dậu với các tiếng phương Nam – bài viết trên
thật ra là từ một bài viết cùng với tác giả Mei Tsu-Lin (1976) về các
từ TH có nguồn gốc phương Nam.
Các
tác giả đã đi đến một kết luận là chủ nhân tên 12 con giáp có thể đã ở
khu vực bờ biển Đông Nam TH, và có thể là các nước Ngô hay Việt thời
xưa. Gần đây hơn, trong bài viết về 12 con giáp của William G. Boltz(9)
(1991), ông ghi lại một số bảng so sánh gồm có các tiếng Saek, trích từ tài liệu của giáo sư William Gedney (1982).
Sau khi phân tích các dữ kiện, tác giả kết luận rằng bảng 12 con giáp
của tiếng Saek Cổ (mà Gedney chép lại) là vay mượn từ TH, có lẽ khoảng
200 hay 600 năm sau Công Nguyên (SCN), và 12 con giáp VN có lẽ mượn sau
đó nữa (thời kỳ Late Middle Chinese).
Từ năm 2000,
người viết(10) đã cho ra các bài (kết hợp từ nhiều năm trước) bàn về
tên 12 con giáp để cho thấy nguồn gốc VN. Các tác giả trước đây không
ai đề nghị nguồn gốc VN của 12 con giáp, có lẽ gần nhất là tiếng Mường
Cổ mà thôi. Thêm vào đó là những học giả ‘có uy tín’ trong nước như
Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn … cũng như các học giả TH
đều viết nhiều về văn hoá VN nhưng đều hàm ý nguồn gốc TH của 12 con
giáp, tuy không ai dựa trên dữ kiện ngôn ngữ học cả và đa số dựa trên
tài liệu lịch sử và văn chương cổ điển. Ngôn Ngữ Học nói chung, và Âm
Ngữ Học Lịch Sử (Historical Phonology) nói riêng là những ngành học khá
mới mẻ ở VN và TH.
Như đã viết ở phần 1, ta đã thiết lập liên hệ Mão/Mẹo/mèo, Ngọ/ngựa và Tý/Tử/chuột.
Dựa vào cách cấu tạo chữ Hán, cũng như kết quả mà các tác giả phần trên
đã dầy công nghiên cứu, ta có thể khám phá thêm một số chi tiết mà các
vị trên chưa biết tới, có lẽ vì không biết đến tiếng Việt Cổ chăng ?
Thí
dụ như chi thứ 9 là Thân có liên hệ gì đến con khỉ VN ? Nếu ta xem cách
viết chữ Thân viết bằng bộ điền với nét giữa dài hơn, giọng BK bây giờ
là shÄ“n (viết theo pinyin), được phục hồi âm cổ với dạng *khrin (Li
Fang-Kuei 1971, William Boltz 1991), hay dạng *hljin (William Baxter11
1992 - để ý phụ âm r và l dễ hoán chuyển cho nhau). Nếu xem cách viết
chữ khôn (một trong bát quái, một căn bản của Kinh Dịch có từ thời
Thượng Cổ) thì ta thấy bộ thổ hợp với chữ Thân hài thanh (HT). Đây là liên hệ trực tiếp giữa Thân và khôn, tuy nhiên tiếng Việt Cổ có chữ khọn là con khỉ(12)
(theo “Đại Nam Quốc Âm Tự Vịâ€Â/ ĐNQATV, Huỳnh Tịnh Của, 1895 - lặp lại
trong cuốn “Từ Điển Từ Việt Cổâ€Â, Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện 2001).
Thành ra Thân chính là khỉ, tiếng Việt Cổ, dầu rằng
biến âm th-kh rất hiếm(13)vì âm thanh thay đổi qua hơn hai ngàn năm từ
một gốc chung, sau đó lại gặp nhau trong tiếng Việt - so với liên hệ
rất thường gặp từ tiếng TH qua tiếng Việt như sh-th của shuÄ BK/thuỷ HV
(nước), shén/thần, shèn/thận (- trọng), shÄ›n/thẩm (biết), shàn/thiện,
shí/thập, shì/thích, shù/thụ (cây)…phản ánh quá trình tiếng TH nhập vào
tiếng Việt thời Đường Tống một cách có hệ thống hơn. Tàn tích của biến
âm th-kh còn thấy trong tiếng Việt như khoá/toả, khâu/thêu, khắp/tạp …
Còn
Dần có dính líu gì đến cọp ? Dần HV viết bằng bộ miên, giọng BK bây giờ
là yín, jan4 QĐ, Hẹ là jin2, rin2 – xem cách viết cổ thì thấy hình mái
nhà (bộ miên) với một người ở trong đang dâng lễ vật bằng hai tay đưa
lên (hàm ý cung kính). Thật ra nghĩa thông dụng của dần
trong tiếng TH hiện đại là kính trọng. Các âm tương ứng với yín BK bây
giờ trong tiếng Việt thường là d- như yín (dâm), yíng (doanh), yóu
(du), yòu (dụ) … tuy nhiên có những trường hợp yín BK tương ứng với âm
ngạc sau (postpalatal) như yín/ngân (bạc), yín/ngâm (vịnh) … và yínyín
là tiếng chó sủa (so với tiếng Việt ‘gấu gấu’) ..và đôi lúc mất hẳng âm
đầu đi như yìn/ẩn, yÄ«n/âm (lặng im) : âm viết bằng bộ khẩu hợp với chữ
âm (thanh) HT hay bộ nạch (bệnh) cho thấy tiếng Việt còn duy trì dạng
cổ hơn, đó là câm với âm ngạc sau k- , so với một cách đọc QĐ là ngam1-
các dạng tương đương khác đáng chú ý là khản, khàn, khan. Các biến âm
trên xẩy ra trong một thời gian rất dài, tuy nhiên khác với âm d- HV
nhập vào tiếng Việt một cách có hệ thống hơn. Với cùng một nghĩa (dần,kính,cẩn), và dựa trên tàn tích của âm ngạc sau trong tiếng Việt (chứ không phải tiếng HV) cho ta đến một dạng âm cổ phục hồi của Dần là *kan,
dạng này phù hợp với các dạng(14) bây giờ của Dần trong tiếng saek,
Thái, Khme … Nhưng liên hệ trong tiếng Việt và HV còn có a-e hay a-ê
như hạ-hè, trà-che, hoạ-vẹ … và phá-bể, giá-kệ/kê, gà-kê … Thành ra
*kan có thể là *kên hay *kênh. Dạng phục hồi *kênh tương ứng với tiếng Việt Cổ kễnh chính là con cọp,
như vậy ta có liên hệ giữa tên con giáp Dần và tên con cọp. Câu ca dao
sau nói lên phần nào vai trò con mèo (Mão/Mẹo) và kễnh trong văn hoá
dân gian
.
“Mèo tha miếng thịt xôn xao
Kễnh tha con lợn thì nào thấy chiâ€Â
.
ÃÂ
tứ và cách dùng các con vật như mèo và kễnh như trong ca dao của VN
trên thật là xa lạ với văn hoá TH. Qua các phân tách sơ khởi trên - và
chỉ qua 6 liên hệ Mão/Mẹo/mèo, Ngọ/ngựa, Tý/Tử/chuột, Thân/khọn (khỉ),
Dần/kễnh (cọp), Sửu/tlu (trâu) – ta thấy tên các con giáp càng gần gũi với tộc Việt hơn.
Các lý giải phần sau sẽ cho thấy rõ hơn nguồn gốc Việt Nam của tên 12
con giáp sau khi đã tháo gỡ các lớp bụi thời gian cũng như cạo đi các
lớp son phấn vô tình hay cố ý mà người xưa để lại trong ngôn ngữ.
.
4. Phụ chú
(1)
Ta thường nghe nói tuổi chuột, tuổi con chuột hay tuổi Tý … các cách
nói này đều cùng nghĩa là năm sinh vào năm con chuột (năm Tý). Thành ra
có thể có nhiều bảng cùng chỉ 12 con giáp trong ngôn ngữ, từ tiếng HV
đến tiếng ‘thuần Việt’ cho thấy sự phân cực thành văn chương BH so với
BD…v…v… Lê Quý Đôn (1726-1784) trong “Vân Đài Loại Ngữ†(người viết có
hai bản dịch : Trần Văn Giáp, NXB Văn Hoá Thông Tin 2006 và bản của các
tác giả Phạm Vũ, Lê Hiền do Nhà Sách Tự Lực in) cũng không đề cập đến
mèo mà ghi Tý là thỏ, điều này cho thấy hoàn cảnh phức tạp khi dùng tài
liệu TH, nhiều khi không hợp với cách dùng thông thường của đa số quần
chúng (văn chương BD). Trong cuốn tự điển Việt-Bồ-La của Alexandre de
Rhodes (1651) ra đời trước “Vân Đài Loại Ngữ†khoảng hai trăm năm, tác
giả đã ghi nhận giờ mẹo là giờ mèo (con mèo). Nhìn bảng so sánh trên
qua tiếng Saek Cổ và hiện đại, ta thấy Mão/Mẹo hiện diện trong ngôn ngữ
cổ hơn, như thỏ (nhập từ tiếng TH) bắt đầu có mặt trong tiếng Xiêm .
Trên phương diện tín ngưỡng dân gian, có người tin rằng có những tuổi
hợp và khắc nhau (tạo ra bao nhiêu tình duyên ngang trái) kết hợp thành
nhiều trường phái ‘bói toán’, chỉ làm tên 12 con giáp ở sau ‘hậu
trường’ trở nên ‘bất tử’ mà thôi.
.
(2)
Theo tác giả Thường Tuấn (Đại Học Thượng Hải) trong cuốn “Văn Hoá về 12
con giápâ€Â, NXB Tổng Hợp Thành Phố HCM, 2005 thì 12 con giáp đã có trước
đời Hán, nhưng từ các dân tộc thiểu số. Như cuốn “Nhật Thư†của Tần
Trúc Giản được khai quật vào năm 1975 ở Hố Bắc cho thấy 12 con giáp đã
lưu truyền từ thời kỳ Tiên Tần và dùng để bói toán. 12 con giáp gồm có
chuột, trâu, cọp, thỏ (khuyết), sâu bọ, hươu …
.
(3) Theo “An Nam Dịch Ngữ†Vương Lộc giới thiệu và chú giải, NXB Đà Nẵng, Trung Tâm Từ Điển Học - Hà Nội – Đà Nẵng 1995.
.
(4) Theo “Từ Điển Mường-Việt†Nguyễn Văn Khang (chủ biên), Bùi chỉ, Hoàng Văn Hoành (2002) – NXB Văn Hoá Dân Tộc – Hà Nội.
.
(5)
“L’Origine du cycle des douzes animaux au Cambodge†tác giả George
Coèdes viết trong Toung pao XXXI (1935), trang 315-329. Ông có nhiều
khảo cứu về ảnh hưởng văn hoá Ấn Độ trên vùng Đông nam ànhư qua bài
“Inventaires des Inscriptions du Champa†từ nă m 1908 (BEFEO VIII) và
cuốn “The Making of South East Asia†(tựa đề nguyên thuỷ là “Les
Peuples de la Péninsule Indochinoise†Paris 1962) dịch ra tiếng Anh bởi
giáo sư H. M. Right, University of California Press 1966.
.
(6)
“Some Old Chinese loan words in the Tai languages†bài viết của giáo sư
Li Fang-Kuei trong bộ ‘Harvard Journal of Asiatic Studies’ 8:333-342
(1945)
.
(7)
“Austro-Thai Language and Culture†(1975) tác giả Paul K. Benedict bổ
túc bài viết từ năm 1967 thành sách đề nghị họ (ngữ hệ) Nam-Thái trong
vùng Đông Nam àđã cho văn hoá TH mượn nhiều từ mà ít người biết đến.
.
(8)
“A note on the origin of the Chinese duodenary cycle†bài viết của
Jerry Norman (1985) trong cuốn ‘Linguistics of the Sino-Tibetan area –
the state of the art’ (Pacific Linguistics, Series C – No. 87). Một học
giả chuyên về tiếng Hán Cổ, đã từng viết cuốn “Chinese†khá phổ thông
(NXB Cambridge University Press, 1988)
.
(9) Xem ghi chú (C) phần 2 bên trên.
.
(10)
“Tiếng Việt Tuyệt Vời – âm m trong tiếng Việt†Nguyễn Cung Thông (1996)
xuất bản ở Melbourne (Úc). Cuốn sách ghi lại hiện tượng m chỉ các bộ
phận trên mặt con người thường bắt đầu bằng âm môi m :
mắt-mặt-má-môi-miệng-mồm-mõm-mụn-mí .mi, mày, mép … Tiếng Mường cũng có
hiện tượng m y như tiếng Việt, thêm vào đó là các từ chỉ người Mường
như mường, mol cho thấy một liên hệ đặc biệt đến âm m. Hiện tượng m là
một cánh cửa hé mở cho thấy tiếng Việt có thể thuộc vào họ Môn-Khme gồm
có nhánh Việt-Mường. Vị trí của tiếng Việt Cổ và ngữ hệ là một yếu tố
quan trọng để tìm về nguốn gốc tên 12 con giáp, nhớ rằng cách đây trên
2000 năm tiếng Việt (Cổ) rất khác tiếng Việt hiện đại. Ngoài ra, đầu
năm 2006 ở SàiGòn, người viết cho ra lò cuốn “Nguồn Gốc tên 12 con giáp
– và các liên hệ Việt, Hán Việt với ngôn ngữ láng giềng qua tiếng nói -
Tập 1†được phát hành rất giới hạn. Cuốn này là tập hợp nhiều bài viết
trong nhiều năm trước và làm căn bản cho các bài viết này.
.
(11)
“A Handbook of Old Chinese Phonology†tác giả William H. Baxter, NXB
Mouton De Gruyter (1992).Tác giả dùng các vần trong Kinh Thi để phục
hồi âm Hán Cổ. Các cuốn “Middle Chinese : a study in Historical
Phonology†(1984) và “Lexicon of reconstructed pronunciation in early
Middle Chinese, late Middle Chinese and early Mandarin†(1991) của
Edwin G. Pulleyblank dùng làm tài liệu chính cho sự so sánh và phục hồi
âm cổ tiếng Hán. Truyền thống phục hồi âm cổ dựa vào âm vận của Kinh
Thi, Thiết Vận … bắt đầu khởi sắc từ các công trình nghiên cứu về âm
Hán Cổ của Bernhard Karlgren từ năm 1915 (bài viết ‘Études sur la
phonologie chinoise’ cũng là Luận án Tiến Sĩ của ông tại đại học
Uppsala dựa vào “Thiết Vận†để phục hồi âm Hán Cổ) đến 1974 (bài ‘The
book of Odes : Chinese text, transcription and translationâ€Â), nhưng có
lẽ nổi tiếng nhất là cuốn “Grammata serica recensa†(1957). Để ý rằng
các học giả trên đều đến từ nước ngoài TH như Baxter (Mỹ), Pulleyblank
(Canada), Karlgren (Thuỵ Sĩ) … Có lẽ là người “phương xa†và với cách
nhìn khách quan, khoa học hơn nên kiến thức về tiếng Hán Cổ gia tăng
rất nhanh so với quá khứ.
.
(12) ĐNQATV (1895) ghi ‘làm tuồng mặt con khọn’, ‘làm con khọn
(làm chẳng nên sự gì)’. Tự điển Việt-Hoa-Pháp (1937) của Gustav Hue
cũng còn ghi nhận nghĩa này. Chữ Thân thường được dùng làm thành phần
HT trong cách thành lập chữ Hán như hợp với bộ nhân nghĩa là suy rộng
ra, hợp với bộ khẩu là rên la … thường đọc là shÄ“n BK, nhưng hợp với bộ
thổ thì lại đọc là kÅ«n BK (khôn), hợp với bộ đại là yăn BK (yểm HV) và
hợp với bộ vũ cho ra chữ diàn BK (điện HV).
.
(13)
Tương quan giữa các từ HV như thân-cận-gần, thận-cẩn (thận trọng, cẩn
trọng, cẩn trọng), thiên-kiên, thì-thị-kỷ … tuy cách viết khác nhau
nhưng đọc giống và nghĩa cũng gần nhau – có thể là tàn tích của liên hệ
th-k/kh HV hay sh-kh BK thời Tiên Tần trước khi các chữ viết được thống
nhất. Có thể chúng có cùng gốc nhưng vì sự phát triển của ngôn ngữ và
biên gìới (thêm các tiếng địa phương) nên mang những dạng khác nhau để
phù hợp với các chức năng mới. Ta thấy một khuynh hướng tương tự khi so
sánh tiếng Mường và tiếng Việt : khầng-sừng, khảu-sáu, khay-say,
khàinh-sườn, khã-sữa, không-sông …(sđd). Nếu tiếng Mường bắt đầu tách
khỏi tiếng Việt sớm nhất từ thời Hán thì phù hợp với tương quan
shÄ“n-kÅ«n BK đã nói ở trên trong tiếng Hán Cổ.
.
(14)
Dần có thể coi như tương đương với kính (jìng BK) như cách viết cổ cho
thấy – thành ra *kinh có thể là một dạng âm cổ phục hồi – và cũng liên
hệ đến kễnh như trên. Jìng BK viết bằng bộ khuyển hợp với chữ cánh HT,
là kính HV, nghĩa là một loài hổ dữ tợn đến nỗi ăn thịt mẹ nó sau khi
sinh ra ! Theo người viết, kính có thể liên hệ đến kễnh. Ngoài ra,
trong tiếng TH hiện nay có một chữ rất hiếm viết bằng bộ hổ hợp với chữ
khứ (đã qua, đi), giọng BK bây giờ là kÇŽn,
hÇŽn, QĐ ham2 … có nghĩa là loài hổ trắng, hổ giận dữ, tiếng hổ gầm … Có
thể là tàn tích của khan/kan hay kễnh. Một chữ cũng rất hiếm là khư
viết bằng bộ khẩu hợp với chữ khứ nghĩa là ngáp, qÅ« BK, keoi1 QĐ và Hẹ
ki1, kiap7 …cho thấy tàn tích các âm ngạc sau còn được duy trì trong
tiếng địa phương (Nam TH). Như đã nói trong bài viết trước (phần 1),
các từ có nguồn gốc phương Nam không được dùng và trở nên đào thải trong vốn từ TH hiện đại. Một
trong những cách nghiên cứu về nguồn gốc tên 12 con giáp là tìm ra
những từ Hán Cổ hiếm hay rất ít khi dùng để xác định âm và nghĩa gốc
khi so sánh với các ngôn ngữ phương Nam.
.
Oan | Thố/ thỏ | Miễn | Miễn | Miễn |
|
| (từ bỏ) | (gắng) | (thỏ con) |
冤 | 兆| 兠| 勉 | 女勉 |
.
(15) Nguồn gốc oan trái của tên 12 con giáp .
Sau
khi đã lượt qua các tương ứng giữa tên Hán-Việt/HV của 12 con giáp và
tên gọi các con thú trong tiếng Việt, ta thấy một liên hệ rất rõ nét.
Đây thật là một sự khám phá bất ngờ so với đa số quan niệm từ trườc đến
giờ (qua bao ngàn năm) và từ Đông sang Tây rằng tên 12 con giáp có
nguồn gốc TH. Nguồn gốc oan trái này lại thêm oái ăm khi chính nguồn
gốc chữ oan HV cho ta một cách chứng minh về chủ nhân của tên 12 con
giáp. Như đã viết nhiều lần, tên 12 con giáp của VN khác với TH và dĩ nhiên các nước àChâu khác (bị ảnh hưởng của TH) ở chỗ chi Mão/Mẹo chỉ con mèo chứ không phải con thỏ.
Điều này được xác định rõ ràng từ thời Vương Sung (sinh năm 27- chết
năm 97 đời Hán, thiên Thiên Sinh Luận của “Luận Hành†) liên tục cho
đến nay.
Như
vậy nếu ta có thể chứng minh rằng chi Mão/Mẹo đã từng chỉ con mèo, thì
bài ‘toán đố nguồn gốc tên 12 con giáp’ đã có được một lời giải rồi,
không cần phải so sánh và khôi phục từng âm cổ cùng phân tách các chữ
viết thời thượng cổ.
Chữ
Oan HV viết bằng bộ mịch (bao trùm lấy) hợp với chữ thố ở dưới, giọng
Bắc Kinh/BK bây giờ là yuÄÂn là một dạng của wan (‘quan’ đọc theo giọng Nam, hay oan). Có hai cách giải thích về cách cấu tạo chữ oan : thứ nhất là nắp đậy biểu thị sự giới hạn đi lại của con thỏ do đó hàm ý oan trái cho con thỏ bị giam lại. Cách thứ hai dựa vào sự viết giống nhau giữa chữ thố và chữ miễn
– hai chữ này không có sự phát biệt trong văn tự cổ thời Xuân Thu
(770-476 TCN, theo cuốn “Ngữ Lâm Thú Thoại†Triệu Bá Bình, Thời Học
Đưòng chủ biên 2005, NXB Văn Hoá Thông Tin). Chữ thố có thêm một nét
(dấu phẩy) để chỉ cái đuôi con thỏ. Hai chữ bây giờ chỉ khác nhau có
một nét nhỏ nhưng đọc và nghĩa khác nhau rất nhiều. Tuy nhiên, chữ thố
trong bia khắc thời Hán và chữ miễn trong đề tự khắc hoạ ở nhà thờ Vũ
Lương thời Đông Hán đều nói “Thần phục kiếm từ, dĩ thố kỳ tử†( hay dĩ miễn kỳ tử là khích lệ con cái, sđd). Miễn HV hay vấn HV (biến âm m-v) đọc là miăn, wèn BK bây giờ so với min5, man6 Quảng Đông/QĐ. Thành ra miễn và thố không những cùng cách viết mà cùng âm đọc giống nhau thời Xuân Thu,
hay người xưa đã dùng âm đọc miễn để biểu thị chữ oan (thành phần hài
thanh/HT). Do đó oan là bị nắp đậy và nhận oan khuất, chịu oan vậy.
Theo người viết thì miễn còn là một dạng cổ của mãn – trong vốn từ hiện tại của tiếng TH không còn dùng nữa, mà tiếng Việt (Cổ) nghĩa là con mèo.
Nghĩa này được ghi trong tự điển Việt-Hoa-Pháp (Gustave Hue, 1937) và
Việt Nam Tự Điển (1954). Thật ra có những chữ rất hiếm như man viết
bằng bộ khuyển hợp với chữ man HT (tần số dùng là 9 trên 171894734) hay
bộ trĩ hợp với chữ man HT … đều