Nói gì thì nói, làng thơ Việt Nam mà thiếu cái dáng
thấp đậm của Trần Đăng Khoa thì kể cũng buồn. Tôi ngắm nghía tướng đi
của Trần Đăng Khoa nhiều năm, và nhận ra một sự thật: Khi bước lảo đảo
thì anh là thi sĩ đích thực, còn khi bước huỳnh huỵch thì anh là cán bộ
chân chính.
Trần Đăng Khoa là một tên tuổi ăn khách. Trước đây
Trần Đăng Khoa đã nổi tiếng, sau Chân dung và đối thoại càng nổi tiếng
gấp bội. Viết gì liên quan đến Trần Đăng Khoa, sẽ được công chúng kỹ
lưỡng ngó nghiêng ngó dọc, cho nên từ lâu muốn nói thẳng nói thật một
chút về thơ anh, cũng khiến tôi đắn đo rất nhiều.
Dù không thông minh lắm, tôi vẫn có thể biết rằng, muốn "ăn theo" Trần Đăng Khoa, cứ in một cuốn "đánh úp" Chân dung và đối thoại thì có khi còn bán đắt hơn Chân dung và đối thoại,
nhọc công làm gì bình thơ với luận thơ. Thế nhưng, sự nghiệp Trần Đăng
Khoa là thơ, nghi lễ đầu tiên để Trần Đăng Khoa đến với cuộc đời này là
thơ, và câu chuyện cuối cùng nhân gian nhắc đến Trần Đăng Khoa vẫn là
thơ. Tôi tin như vậy và kiên nhẫn tìm đọc toàn bộ thơ Trần Đăng Khoa.
Từ nhỏ, tôi đã được học và phải học tác phẩm của Trần
Đăng Khoa, vì đó là chương trình bắt buộc trong sách giáo khoa. Lớn
lên, khi không còn ai có quyền ép tôi đọc những câu vần vè mà tôi không
thích nữa, thì tôi lại tập tin tưởng về một giá trị tương đối ổn định
của thơ Trần Đăng Khoa. May mắn có vài dịp đi qua xã Quốc Tuấn, huyện
Nam Sách, tỉnh Hải Dương, tôi luôn tìm cớ dừng lại rất lâu để ngắm nhìn
những bờ ruộng nhấp nhô, những mái nhà thấp thoáng, những hàng tre lập
lòa trong bóng chiều nhập nhoạng của một miền quê nghèo, mà tự hỏi: Tại
sao nơi này có thể sinh ra được một thần đồng thơ nhỉ?
Quê nhà bé bỏng của Trần Đăng Khoa chẳng khác chi
những vùng đất lam lũ dọc theo đất nước ta, chứ có phải địa linh gì đâu
để nung nấu khát vọng nhân kiệt. Không thể giải thích bằng tư duy hợp
lý, tôi đành tự trả lời theo tâm linh đưa đẩy: Biết đâu năm 1958,
Thượng Đế nhàn rỗi đã tản bộ qua đây và rải chút ít bụi thơ xuống bờ
bãi sông Kinh Thầy đúng cái ngày bà mẹ hữu duyên trở dạ sinh ra Trần
Đăng Khoa.
Đã có quá nhiều nhận định về thơ Trần Đăng Khoa, thái
độ chuyên nghiệp cũng nhiều, mà ngọt lạt đãi bôi còn nhiều hơn. Hý
trường văn chương nhộn nhịp thời gian gần đây, hơn một lần làm chùng
lòng tôi khi ngón tay đã đặt lên bàn phím định gõ những dòng ý kiến cá
nhân. Tuy nhiên, vì yêu quý nhà thơ Trần Đăng Khoa, tôi lại bình tâm
ngồi xuống lần giở những trang thơ nhấp nháy hào quang thần đồng.
Tròn 40 năm rồi, tượng đài Trần Đăng Khoa đặt giữa
"góc sân và khoảng trời" đã vượt qua nắng mưa và giông gió, đã vượt qua
hào hứng và thờ ơ, đã vượt qua cả kiểu khen quá lời và câu chê quá
khích, để hôm nay kiêu hãnh thách thức lớp người đèo bồng thi tứ kế cận
như tôi! Vậy mà, muốn cầm trên tay một bản thơ Trần Đăng Khoa đáng tin
cậy cũng không dễ, vì các nhà xuất bản in thơ anh đều ghi ngạo nghễ
"thơ chọn lọc", mà tôi không thể biết ai "chọn" và ai "lọc".
Tôi đành thú thật với Trần Đăng Khoa: "Tôi có trong
tay khoảng chục cuốn được rao hàng lảnh lót là "tuyển thơ Trần Đăng
Khoa", nhờ anh chứng nhận bản in nào là bản chính thức?". Thần đồng thơ
dạo nào đã mang hàm Vụ trưởng với chức danh Trưởng ban Văn Nghệ - Đài
tiếng nói VN, tuyên bố chắc nịch: "Tớ sẽ gửi cho cậu một bản rất
chuẩn!". Và nhân chuyến bay vào miền Nam tìm kiếm tư liệu những nhà
ngoại cảm, anh tặng tôi tập "Thơ Trần Đăng Khoa" dày hơn 400 trang, do
Nhà xuất bản Kim Đồng ấn hành tháng 4/2007. Tôi bắt đầu "khai quật" thơ
Trần Đăng Khoa bằng chính bản in này.
Từ khi Xuân Diệu nhón bút viết lời giới thiệu cho tập thơ Góc sân và khoảng trời
in lần đầu tiên năm vạn bản, Trần Đăng Khoa đã phải mang vác một cái
bóng lồng lộng trên mỗi bước đi chậm chạp. 66 bài thơ trong tác phẩm
đầu tay được Trần Đăng Khoa dán cái nhãn "made in Thần Đồng" bay khắp
hang cùng ngõ hẻm của đất nước Việt Nam những năm cuối cuộc chiến tranh
chống Mỹ và những năm đầu thống nhất giang sơn. Trần Đăng Khoa như một
chú chim non cất cao chất giọng đặc sản nông thôn Bắc bộ líu lo bài ca
đặc sản phù sa Bắc bộ "Hạt gạo làng ta/ Có bão tháng Bảy/
Có mưa tháng Ba/ Giọt mồ hôi sa/ Những trưa tháng sáu/ Nước như ai nấu/
Chết cả cá cờ/ Cua ngoi lên bờ/ Mẹ em xuống cấy…".
Đây không phải là bài thơ dành để bàn luận hay dở, mà
là tác phẩm gồng gánh sứ mệnh một cậu bé có tài thơ được chọn để nói hộ
hàng ngàn trẻ em mong mỏi cuộc sống thanh bình. Những câu thơ trên bất
kỳ đứa trẻ nào cũng có thể buông ra khỏi vòm họng dễ dàng như hát đồng
dao, nhưng lịch sử đã chọn Trần Đăng Khoa. Sự xuất hiện của nhạc sĩ
Trần Viết Bính chắp cánh cho Hạt gạo làng ta cũng chỉ
là tình cờ. Không có Trần Viết Bính thì sẽ có nhạc sĩ khác, và bài thơ
này vẫn lưu danh vì được hỗ trợ yếu tố thời điểm cực kỳ quan trọng. Bây
giờ chẳng khó khăn gì để tìm ra một đứa trẻ 11 tuổi viết được những
câu, những dòng, những ý hay hơn Hạt gạo làng ta nhưng mãi mãi không thể có "hạt vàng làng ta" thứ hai.
Bằng tất cả cân nhắc, tôi cho rằng, chỉ cần Hạt gạo làng ta thì Trần Đăng Khoa đã có thể ở lại với văn học sử. Thế nhưng, tài thơ của Trần Đăng Khoa lớn hơn phong trào "em vui em hát". Mẹ ốm và Cơn dông
là hai bài thơ đủ để người lớn yêu thơ phải ngả mũ chào cậu bé sinh
ngày 24/4/1958 vừa rửa sạch đôi tay lấm lem bùn ở cái ao làng Đông
Thôn. Với sự khôn lanh ngày càng nảy nở qua từng thế hệ trẻ con, không
ít bài thơ trong Góc sân và khoảng trời đang và sẽ bị rơi rụng dần.
Thế nhưng, những đứa trẻ làm thơ nối tiếp như Khánh
Chi hay Phan Tuy An không thể nào "tiếm ngôi" Trần Đăng Khoa, vì anh có
lá bùa mười bốn chữ "Ngoài thềm rơi chiếc lá đa/ Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng" mà một Đêm Côn Sơn hạnh ngộ "như hồn Nguyễn Trãi năm nào về thăm" đã gửi tặng món quà không bao giờ được nhận lần nữa.
Với bản tính tinh nhạy, Trần Đăng Khoa sớm ngộ ra
chất giọng đặc sản bản thân đang sở hữu chỉ phù hợp với vần điệu trẻ
con, chứ thế giới người lớn đòi hỏi những cung bậc khác. Anh cúi xuống
nhìn hình dong mình thì thấy cái áo trẻ con ngày càng chật chội, mà
ngẩng đầu lên thì thấy cái bóng thần đồng vẫn lồng lộng.
Trần Đăng Khoa quyết định đột phá khỏi chiều kích thiếu nhi bằng những cơn vùng vẫy trường ca. Cuộc Đi đánh thần hạn không thành công, còn cuộc điểm danh Làng quê chỉ thấy chen lấn những câu binh nhất, binh nhì mà vắng bặt những câu cấp tướng, cấp tá.
Từ biệt hai trường ca xa xót ấy, Trần Đăng Khoa 16
tuổi cỡi phăng cái áo trẻ con và mượn tạm vài cái áo người lớn để khoác
lên mình, dồn chí lao vào trận "tổng tiến công" có ý nghĩa một phen cá
vượt vũ môn. Hơi đáng tiếc, dù dùng thơ Tố Hữu, thơ Nguyễn Đình Thi,
thơ Xuân Diệu, thơ Chế Lan Viên và thơ ca Xô Viết Nghệ Tĩnh để khởi
động náo nức cho mỗi chương, thì trường ca Khúc hát người Anh hùng chỉ còn lại bùi ngùi hai câu ấm áp lòng người: “Mái gianh ơi hỡi mái gianh/ Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hươngâ€Â.
Mùa xuân năm 1975 là cột mốc của dân tộc, theo tôi,
cũng là một cột mốc để đánh giá thơ Trần Đăng Khoa. Bởi lẽ những bài
thơ dù dài dù ngắn của Trần Đăng Khoa viết trước năm 1975 đã hoàn thành
vai trò gọi tên một thần đồng thơ. (Sau này Trần Đăng Khoa có sửa những
câu thơ như "Chăm ngoan học giỏi/ Là bạn thiếu nhi/ Ngu xuẩn nhất nhì/
Là tổng thống Mỹ" mà nhiều người thắc mắc, thì tôi thấy cũng chẳng phải
chuyện để xôn xao. Vì những câu thơ ấy chỉ như thay hàng ria trên mép
bằng chòm râu dưới cằm thôi, mà khuôn mặt thần đồng thơ vốn đáng yêu
nhờ "mày râu nhẵn nhụi").
Có thể những ai yêu mến Trần Đăng Khoa sẽ có suy nghĩ
khác, nhưng tôi vẫn khẳng định: năm 17 tuổi, Trần Đăng Khoa đứng trước
một ngã rẽ, hoặc rèn luyện kỹ thuật thanh nhạc để thay đổi chất giọng
đặc sản trẻ con, hoặc chấp nhận quá khứ oai hùng ngày xưa đã từng biết
hát. Một sự lựa chọn sinh tử bày ra, Trần Đăng Khoa thừa khả năng cách
tân ngôn ngữ và hình tượng thơ, nhưng anh vẫn thảnh thơi dùng năng
khiếu trời cho để tiếp tục ngân nga chất giọng quen thuộc.
Sự tự tin ấy khiến tôi e ngại đọc tới những bài thơ của chàng trai Trần Đăng Khoa. Những bài thơ Ngày mai ra trận, Thư gửi mẹ, Về làng cứ mờ nhòe giữa dòng thơ lính vốn rất rộn ràng trong nền văn học Việt Nam. Ngay cả những bài Cây phong ba trên đảo Nam Yết, Đồng đội tôi trên đảo thuyền chài, Ghi ở đảo chìm, Cô tổng đài hải đảo... đưa
vào rất nhiều địa danh và đặc điểm khơi xa, nhưng tôi nghi ngờ khi Trần
Đăng Khoa viết đã quá chú trọng thân phận bộ đội hải quân của mình, nên
chức năng thơ tạm dừng ở mức hoàn thành nhiệm vụ tuyên truyền cần thiết.
Còn bài Thơ tình người lính biển tồn
tại bấp bênh trên câu thơ "Biển một bên và em một bên" do Tế Hanh cho
vay! Hai bài khá nhất trong vệt sáng tác này của Trần Đăng Khoa là Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn và Lính đảo hát tình ca trên đảo
hầu như nương tựa vào chất lính ngộ nghĩnh yêu đời, chứ chất thơ thì
không thể nào so sánh với bốn câu cùng đề tài được trích ngẫu nhiên
trong Gửi từ đảo nhỏ của Hữu Thỉnh: "Mặt trời qua đây
về nở với ao bèo/ Đám mây qua đây để thành gà gáy/ Ngọn gió qua đây để
thành sóng dậy/ Sóng qua đây thành nỗi nhớ hàng dương".
Nếu Trần Đăng Khoa vẫn điềm nhiên dùng cái đầu tỉnh
táo để viết những câu thơ giả giọng Phạm Tiến Duật hay Hoàng Nhuận Cầm
thì chắc chắn anh sẽ phải tự đào huyệt chôn danh hiệu thần đồng thơ.
Đáng mừng thay, tưởng đã đến lúc tôi sử dụng câu thơ "Bao thần tượng ta tôn thờ cung kính/ Mưa nắng bào mòn còn trơ lõi đất thôi"
mà Trần Đăng Khoa viết khi đang học ở Trường viết văn Gorki, để ngậm
ngùi tiễn biệt anh khỏi làng thơ, thì hồn thơ của anh lại trở về.
Không ồn ào cũng không bóng bẩy, Trần Đăng Khoa "tam
thập nhi lập" dọn lên bàn tiệc thơ duy nhất một món tỉ tê. Có lẽ thấm
thía nỗi bất lực "đôi lúc ta buồn quá/ muốn hát một câu chơi/ nhưng ta chưa cất giọng/ con vẹt đã hót rồi" nên câu thơ nào của Trần Đăng Khoa cũng rón rén như nói thầm vào tai.
Và dẫu tỉ tê thì Trần Đăng Khoa vẫn bị áp lực thần đồng, nên thơ anh lúc say lúc tỉnh. Ví dụ, bài lục bát Qua Xuđan, anh vừa chớm say câu sáu "Thành xưa đổ bóng vào trời" thì lập tức tỉnh rụi câu tám "Khói sương lãng đãng - Một thời đã xa",
khiến cảm xúc cứ thậm thụt, hại cả tác phẩm trơn tuột giá trị thẩm mỹ.
Hơn nữa, Trần Đăng Khoa đặc biệt có một khoảng trắng ở mảng thơ tình,
mà có lẽ ngày xưa đưa Trần Đăng Khoa đến ra mắt Nàng Thơ, "ông hoàng
thơ tình" Xuân Diệu quên dúi "bí kíp" vào tay học trò. Tôi cam đoan, ai
lơ mơ đem bài thơ Gửi em ở Ninh Bình của Trần Đăng Khoa để tán tỉnh các cô gái Tam Điệp hay Hoa Lư cũng đều thất bại lập tức.
Nói gì thì nói, làng thơ Việt Nam mà thiếu cái dáng
thấp đậm của Trần Đăng Khoa thì kể cũng buồn. Tôi ngắm nghía tướng đi
của Trần Đăng Khoa nhiều năm, và nhận ra một sự thật: Khi bước lảo đảo
thì anh là thi sĩ đích thực, còn khi bước huỳnh huỵch thì anh là cán bộ
chân chính. Bài thơ Ở nghĩa trang Văn Điển có thể xem như minh chứng rõ nét nhất. Trần Đăng Khoa lảo đảo đi qua hai khổ thơ đầy tâm trạng: "Người
hạnh phúc và người đau khổ/ Đều gặp nhau trắng toát ở nơi này/ Đều dài
rộng như nhau vuông cỏ biếc/ Đều ấm lạnh như nhau trong hơi gió heo
may/ Ôi thiên nhiên, cám ơn người nhân hậu/ Những so le, người kéo lại
cho bằng/ ÃÂt nhất cũng là khi nằm xuống/ Trong mảnh gỗ rừng, dưới một
vầng trăng".
Theo tôi, dừng tại đây đã có được một bài thơ khá
hay. Khổ thân, Trần Đăng Khoa đột nhiên lấy lại thăng bằng, anh không
bước lảo đảo nữa mà bước huỳnh huỵch thêm… mười khổ thơ, như một vị cán
bộ có cơ hội thuyết trình trước đám đông đã tranh thủ nói cho hết mấy
phút ưu tiên của mình, với kết luận trịnh trọng: "Trước mặt ta là hàng hàng bia đá/ Nói với ta: Hãy thương lấy Con Người". Ôi, Trần Đăng Khoa định dùng lắt léo và mưu mẹo để chuyển tải một thông điệp to tát, nên anh chia Ở nghĩa trang Văn Điển thành hai loại thơ, hai khổ đầu là thơ-ưu-tư còn mười khổ sau là thơ-diễn-đàn.
Trong những sáng tác gần đây của Trần Đăng Khoa, nhiều người hoan nghênh Gửi bác Trần Nhuận Minh, nhưng theo tôi, đây là bài thơ tự sự bình thường, chỉ cất lên được một chút ở hai câu cuối "Thung thăng em với bác/ Ta cưỡi thơ ra đồng". Trường hợp khác, bài Mùa xuân của lính biên phòng, tôi bắt gặp Trần Đăng Khoa bước lảo đảo đôi lần "Đất trời bồng bềnh men rượu/ Em từ mây trắng bước ra" và "Ta cũng trẻ như trời biếc", chứ những câu còn lại đều được bước trang nghiêm lắm, lịch sự lắm.
Nếu chọn một bài để khẳng định Trần Đăng Khoa sau năm tháng thần đồng đang bước lảo đảo về miền thi ca, thì tôi chọn Đỉnh núi.
Thể thơ ngũ ngôn gập ghềnh, giúp những bước lảo đảo của Trần Đăng Khoa
bộc lộ đầy đủ phẩm chất thi sĩ. Không thể nói khác hơn, Đỉnh núi là một điểm nhô lên giữa những mô, những gò, những đồi của thơ Trần Đăng Khoa thời vất vả làm người lớn. Đỉnh núi
khi tình lúc cảnh, khi ray rứt phận người lúc miên man nghĩa nước, mà
tôi không thể nào cưỡng lại được mong muốn dùng trọn vẹn hai mươi câu
thơ để kết thúc bài viết này:
"Ta ngự giữa đỉnh trời/ Canh một vùng
biên ải/Cho làn sương mong manh/ Hóa trường thành vững chãi/ Lán buộc
vào hoàng hôn/ Ráng vàng cùng đến ở/ Bao nhiêu là núi non/ Ríu rít
ngoài cửa sổ/ Những mùa đi thăm thẳm/ Trong mung lung chiều tà/ Có bao
chàng trai trẻ/ Cứ lặng thinh mà già/ ÃÂo lên màu mốc trắng/ Tóc đầm đìa
sương bay/ Lời yêu không muốn ngỏ/ E lẫn vào gió mây/ Bỗng ngời ngời
chóp núi/ Em xòe ô thăm ta?/ Bàng hoàng xô toang cửa/ Hóa ra vầng trăng
xa…"