Đất chật, người đông, ít đất canh tác nên người nông dân ở vùng đồng bằng Bắc bộ có nhiều thời gian nhàn rỗi. Cũng vì vậy mà người nông dân nào cũng biết thêm một nghề phụ thủ công, từ đơn giản như đan lát, làm gốm thô sơ, làm đồ mộc, trồng dâu nuôi tằm... đến các nghề thủ công mỹ nghệ tinh xảo, nhằm thỏa mãn nhu cầu tự cấp tự túc trong phạm vi gia đình, làng xóm hoặc đem bán ở chợ quê. Cho tới cách mạng Tháng Tám 1945, người ta đã thống kê được hàng trăm nghề thủ công khác nhau ở đồng bằng Bắc bộ, trong đó nổi lên ba nghề chính là dệt, gốm và luyện kim. Một số làng nghề thủ công với những người thợ có tay nghề khá cao còn tồn tại đến tận ngày nay. Hiện tại, tuy công nghiệp ở đồng bằng Bắc bộ khá phát triển so với nhiều vùng khác trong nước, nhưng tiểu thủ công ở đây vẫn chiếm tỉ lệ tới 70% tổng giá trị sản phẩm công nghiệp của vùng.
Các nghề thủ công, nhất là ba nghề chính kể trên đã có lịch sử từ rất lâu đời. Nghề gốm đã có lịch sử từ thời văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn đến các văn hóa tiền Đông Sơn và Đông Sơn. Đến thời phong kiến tự chủ, gốm men Lý Trần, gốm men nhiều màu thời Lê Mạc... đã tạo ra sản phẩm đủ loại: gốm dân dụng, gốm nghệ thuật, gốm kiến trúc... Các loại gốm với các chất liệu khác nhau: gốm đất nung, gốm sành nâu, sành xốp, sành trắng và chuyển dần lên đồ sứ. Một số làng gốm có tiếng đến tận ngày nay như Bát Tràng, Thổ Hà, Phù Lãng ở vùng Kinh Bắc, làng Cậy, Quao Đông (xứ Đông) Hương Canh (xứ Đoài)...
Đồng bằng Bắc bộ cũng là quê hương của nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt vải lụa, thêu thùa. Xưa kia, hầu như nhà nào cũng có khung dệt, làng nào cũng có nghề dệt nhuộm nhưng vẫn thấy nổi lên những làng nghề có tiếng, đứng đầu một sản phẩm nào đó như the La Cả, La Khê, đũi, lụa của Đại Mỗ, gấm của Vạn Phúc, lĩnh của Tây Hồ, Bưởi, lụa của Cổ Đô (Sơn Tây), Bộ La (Thái Bình), lượt làng Bùng... Cùng với nghề dệt vải, lụa là các nghề nhuộm, thêu tạo nên những màu sắc và đường nét tinh xảo trên vải. Các làng Yên Thái (Hà Nội), Quất Động (Hà Tây) cùng một số phường Hà Nội (Hàng Nón, Hàng Trống, Hàng Chỉ...) tập trung những nghệ nhân khéo tay. Bên cạnh màu thâm và nâu là màu nền được ưa chuộng trong y phục của cư dân đồng bằng Bắc bộ, nghề nhuộm cổ truyền cũng đã tạo ra từ các chất liệu tự nhiên các màu sắc phù hợp với các lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, giai cấp như: màu tam giang của nhiễu đoạn phù hợp với tuổi già, màu hoa hiên mang dáng vẻ quê mùa, màu cánh kiến cho các bà chịu phận góa bụa, màu thiên thanh, hồ thủy, nguyệt bạch dùng may các loại áo mớ ba, mớ bảy cho các bà cô ở đô thị...
Trong thời cổ đại, đồng bằng Bắc bộ đã từng là trung tâm luyện kim nổi tiếng, đặc biệt là nổi tiếng với nghề đúc đồng. Những di vật thời văn minh Đông Sơn còn lại tới ngày nay (trống đồng, thạp, thố, rìu, qua đồng, mũi tên, lưỡi cuốc, cày...) chứng tỏ người Việt cổ đã đạt tới trình độ luyện kim cao so với các trung tâm văn minh khác. Trong suốt thời phong kiến tự chủ, nghề luyện kim tiếp tục phát triển, ngoài công cụ sản xuất nông nghiệp còn có các sản phẩm nổi tiếng khác còn được lưu giữ như các chuông đồng ở đình chùa, vạc đồng ở Phổ Minh, tượng đồng đen ở Trấn Võ, tượng phật A di đà ở các đình làng Ngũ Xã...
Có thể nói, làng nào ở đồng bằng Bắc bộ cũng có nghề rèn, nhưng trong đó nổi lên một số trung tâm rèn sắt, đúc đồng như Đại Bái, làng Ngâm, Đa Hội, Đa Sĩ, Ngũ Xã, Xuân Phao, Lộc Thượng, Đại Đồng... Ở Đại Đồng có 9 làng làm nghề đúc đồng, liên kết lại thông qua lao động khá chặt chẽ. Xưa kia ở các làng nghề này đã hình thành các phường thợ rèn đúc, có thợ cả, thợ bạn, thợ học việc... có hỗ trợ vốn và kĩ thuật, có thờ cúng, có thờ cúng tổ sư nghề, có sinh hoạt xã hội và tín ngưỡng riêng.
Ngoài ba nghề thủ công truyền thống cơ bản trên, cư dân đồng bằng Bắc bộ còn làm hàng trăm nghề thủ công khác, trong đó có hàng chục nghề thủ công mỹ nghệ đòi hỏi tay nghề cao như: làm tranh dân gian (Đông Hồ, Hàng Trống...), chạm khắc gỗ (Bảo Hà, Chàng Thôn, La Xuyên, Chuyên Mỹ...), làm gốm sứ, dệt vải lụa, the, đũi, gấm, kim hoàn... Hầu như các nghề thủ công ở đây đáp ứng gần như toàn bộ những nhu cầu cần thiết của cuộc sống tự cấp tự túc của những người nông dân từ cái mặc, công cụ sản xuất đến các nhu cầu khác như cái chiếu để nằm, cái lược để chải đầu, cái võng để ru trẻ, các đồ vui chơi giải trí, đồ cúng lễ...