(VietNamNet)
– Định hình ý tưởng về xây dựng “hai hành lang, một vành đai†nhằm thúc
đẩy giao thương biên giới Việt – Trung, nhưng triển khai như thế nào để
mang lại hiệu quả thực tế vẫn là câu hỏi lớn đặt ra cho các nhà hoạch
định chính sách VN.
Trong khi đang tìm kiếm, xác định khung quan hệ với
nhiều nước trên thế giới, khung quan hệ với nước láng giềng Trung Quốc
đã được lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc xây dựng và định hình từ khá
sớm. Quan hệ hai nước được xây dựng và phát triển dựa trên phương châm
16 chữ: “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng
tới tương lai†và trên tinh thần 4 tốt: “láng giềng tốt, bạn bè tốt,
đồng chí tốt, đối tác tốtâ€Â.
|
Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào duyệt đội danh dự Việt Nam trong chuyến thăm tháng 11/2006. |
Không còn phải vướng bận việc xác định khung quan hệ
hai nước, các lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc tập trung vào những vấn
đề cụ thể và thiết thực hơn để hiện thực hoá những mục tiêu, đưa khung
quan hệ vào những lĩnh vực cụ thể nhất.
Trong lĩnh vực kinh tế thương mại, vốn được đánh giá
là “chưa tương xứng với tiềm năng, việc xây dựng “Hai hành lang, một
vành đai†trở thành vấn đề được đặc biệt quan tâm.
Định hình ý tưởng
Sáng kiến xây dựng “Hai hành lang, một vành đaiâ€Â
được Việt Nam đưa ra tháng 5/2004, trong chuyến thăm Trung Quốc của
nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải. Đó là hai hành lang kinh tế “Côn Minh -
Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòngâ€Â, hành lang “Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội
- Hải Phòng†và một “Vành đai kinh tế vịnh Bắc Bộâ€Â.
Việc triển khai sáng kiến này sẽ tiến hành ở 4 tỉnh
của Trung Quốc là Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam và 5 tỉnh,
thành của Việt Nam là Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hà Nội, Hải Phòng
với tổng diện tích 869 ngàn km2, dân số 184 triệu người.
Các lĩnh vực hợp tác sẽ bao gồm thương mại, công
nghiệp, nông nghiệp, du lịch, khai thác tài nguyên, chế biến, điện lực.
Lộ trình hợp tác từ 2005 đến 2010 sẽ bắt đầu từ giao thông vận tải, chế
biến, điện lực, tiện lợi hoá đầu tư thương mại; từ 2010 đến 2020 sẽ
triển khai toàn diện, thu hút sự tham gia của nhiều nước ASEAN, đẩy
mạnh hợp tác kinh tế Trung Quốc - ASEAN.
Hai bên đã xác định hợp tác “hai hành lang, một vành
đai†không phải là khu kinh tế độc lập mà sẽ là khu hợp tác kinh tế
xuyên quốc gia trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc -
ASEAN và hợp tác tiểu vùng sông Mê Kông. Nghĩa là, mô hình này sẽ mở
cho các nước khác tham gia hay nói cách khác, đâu là điều kiện thuận
lợi cho mở rộng và tăng cường hợp tác Trung Quốc - ASEAN.
Nhà nghiên cứu Lưu Trĩ của Trung Quốc từng mô tả:
“Mô hình này gần với tam giác tăng trưởng, trong hai hành lang bố cục
hình chữ “Yâ€Â, với Côn Minh, Nam Ninh, Quảng Ninh là 3 đầu, Hà Nội là
điểm giao thoa. Vành đai vịnh Bắc Bộ bao gồm toàn miền Bắc Việt Nam và
3 tỉnh của Trung Quốc là Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam. Trong đó chủ
thể của “hai hành lang, một vành đai†đều thuộc khu vực chưa thực sự
phát triển, song đều có ưu thế riêng, mô hình này đã tạo nên mặt bằng
cơ chế để thu hút nhiều hơn các yếu tố sản xuất và nguyên liệu từ bên
thứ 3.
Mô hình này được nhiều chuyên gia đánh giá là phù
hợp nhất trong bối cảnh hiện nay, khi việc hợp tác giữa hai nước còn
gặp khó khăn, khu vực 9 tỉnh trong sáng kiến còn chưa phát triển. Việc
này đang đặt ra những yêu cầu lớn về tốc độ, phương pháp và cách thức
hợp tác giữa hai bên, đòi hỏi phải có tư duy mới, sự tăng trưởng mới về
hợp tác kinh tế hai nước. Do đó, mô hình này được giới phân tích đánh
giá là “sự lựa chọn chiến lược†để ứng phó với tiến trình toàn cầu hoá
kinh tế và nhất thể hoá khu vực của hai nước.
Có thể thấy, sáng kiến là tốt nhưng trước mắt sẽ làm
lợi cho các tỉnh Trung Quốc vì vừa có thể tiếp cận tài nguyên, vừa có
thể sử dụng đường vận chuyển và hải cảng của Việt Nam. Trong khi đó,
các địa phương của Việt Nam chưa nhìn thấy rõ hiệu quả kinh tế cụ thể,
ngoài việc sẽ phải đầu tư lớn cho cơ sở hạ tầng. (Tính đến nay, các
tỉnh này đã đầu tư hàng tỷ USD để nâng cao hạ tầng cơ sở ở khu vực này).
Hiện thực hoá ý tưởng và hiệu quả thực tế
Tháng 10/2004, khi Thủ tướng Ôn Gia Bảo thăm Việt
Nam, lãnh đạo hai nước đã đạt được nhận thức chung, đồng ý thành lập tổ
chuyên gia trong khuôn khổ Uỷ ban hợp tác kinh tế mậu dịch chính phủ
hai nước, nghiên cứu vấn đề xây dựng “Hai hành lang, một vành đaiâ€Â. Từ
đó việc xây dựng “hai hành lang, một vành đai†đã được nâng lên thành
“chiến lược hợp tác quốc tế†giữa hai nước.
àtưởng đã hình thành. Cơ chế hợp tác, chỉ đạo đã
từng bước được xây dựng. Vấn đề là làm sao để có những dự án cụ thể,
hiện thực hoá ý tưởng, mang lại hiệu quả thực tế cao nhất, góp phần
thúc đẩy sự phát triển kinh tế của khu vực phía Bắc VN.
Đến cuối năm 2006, nhóm chuyên viên hai bên đã họp
hai lần vào tháng 3/2005 và tháng 7/2006, đồng thời mỗi bên đã tiến
hành điều tra nghiên cứu đối với những khu vực có liên quan đến việc
xây dựng "hai hành lang một vành đai" về các chuyên đề như kinh tế xã
hội, cơ sở hạ tầng, phát triển các ngành nghề, tài nguyên thiên nhiên,
nguồn du lịch, môi trường sinh thái, cửa khẩu biên giới…
Hai bên đã cùng nhau soạn thảo hoàn thành báo cáo
nghiên cứu khả thi, sau khi Chính phủ hai nước xem xét và phê duyệt,
hai bên sẽ tổ chức nghiên cứu các dự an liên quan, lấy các dự án dẫn
đầu, triển khai hợp tác theo nguyên tắc dễ trước khó sau, tuần tự tiệm
tiến.
Tháng 11/2006, trong chuyến thăm Việt Nam của Chủ
tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào nhân Hội nghị cấp cao APEC 14, hai bên đã ký
thoả thuận về dự án “Hai hành lang, một vành đaiâ€Â.
Chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên trên cương vị nguyên
thủ quốc gia lần này của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết sẽ bàn thảo
những biện pháp cụ thể để triển khai hiệu quả những cam kết đạt được
giữa hai nước năm 2006. Và hiệu quả của thực hiện dự án “hai hành lang,
một vành đai†là điều Việt Nam cần tính đến trong triển khai.
Một quyết tâm chính trị đủ mạnh, một chiến lược phát
triển đủ rõ ràng và những bước triển khai cụ thể đúng đắn là điều các
nhà hoạch định chiến lược VN hướng tới trong quá trình hiện thực hoá
sáng kiến. Chính phủ VN rất chú trọng đến tính hiệu quả hợp tác này đối
với việc phát triển kinh tế của VN, nhất là các tỉnh có liên quan,
trách trường hợp không chuẩn bị kịp dẫn đến không khai thác được lợi
thế trong hợp tác này.