(VietNamNet) - Đến giữa thế kỷ XX vẫn còn chưa được nhiều người biết, nay Việt Nam đã giành được sự cư xử trân trọng trong mối giao tiếp với các quốc gia khác thuộc cộng đồng quốc tế. Đây là ý kiến của nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng tại Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần II vừa khai mạc sáng nay 14/7 tại TP.HCM.
Khẳng định xu hướng phát triển của Việt Nam
Tập hợp, giới thiệu những thành tựu nghiên cứu về Việt Nam của các học giả trong nước và quốc tế, mở rộng các mối liên kết của các tổ chức và cá nhân cùng lấy Việt Nam làm đối tượng nghiên cứu; nhìn nhận lại chặng đường đã qua và chuẩn bị cho chặng đường phát triển tiếp theo của Việt Nam học, tiến tới hình thành một cơ cấu liên kết giữa các nhà Việt Nam học trên toàn thế giới... GS TSKH Đào Trọng Thi, ủy viên Trung ương Đảng, giám đốc ĐHQG Hà Nội, đã nêu bật mục đích của Hội thảo lần này trong diễn văn khai mạc.
Trong khi đó, chủ tịch UBND TP.HCM Lê Thanh Hải cho rằng đây là dịp thuận lợi để nhân dân Thành phố hiểu sâu thêm về lịch sử, văn hóa của dân tộc, đất nước Việt Nam và tình cảm bè bạn quốc tế dành cho Thành phố.
Tham dự Hội thảo là các nhà nghiên cứu, các chuyên gia về Việt Nam học và các giảng viên đến từ các Viện nghiên cứu, trường Đại học, Cao đẳng trong và ngoài nước, các cán bộ làm công tác quản lý tại các trường Đại học, các nhà hoạch định chính sách. Tuy Ban tổ chức chỉ chọn hơn 300 trong tổng số 550 bài tham luận gửi đến để đưa ra thảo luận tại hội thảo, song đây đều là những công trình nghiên cứu có tính thực tiễn cao, được tiếp cận bằng phương pháp liên ngành chứ không phải đơn ngành như thường gặp. Hơn 30% tổng số báo cáo của các nhà khoa học trong nước thuộc về các tác giả từ TP.HCM.
Vấn đề Việt Nam học thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài. Mục tiêu nghiên cứu nhằm mổ xẻ các góc cạnh từ truyền thống đến hiện đại, từ phong tục đến cải tiến, từ di sản đến thành tựu, từ nhóm dân cư đến cộng đồng với những nét riêng... từ đó có cái nhìn tổng quan về Việt Nam và khẳng định xu hướng phát triển. Trong số 189 đại biểu đến từ 26 quốc gia trên thế giới (Mỹ, Nga, Pháp, Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc, Campuchia, Lào...), 118 người có bài tham luận. Đặc biệt, có sự tham gia của một số Hiệp hội Việt Nam học từ các quốc gia như Nga, Nhật, Campuchia; một số đại biểu dự thính là các nhà nghiên cứu nước ngoài, sinh viên các nước đang theo học ngành Việt Nam học. Họ sẽ trình bày, trao đổi ý kiến, kinh nghiệm, kiến nghị... về những vấn đề bức xúc trên quá trình phát triển, hội nhập của Việt Nam trong quá khứ và giai đoạn hiện tại.
Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng, phó chủ tịch Hội đồng Khoa học Xã hội TP.HCM: Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ II diễn ra tại TP.HCM, với sự tham gia của rất nhiều nhà khoa học nước ngoài và trong nước. Nhìn qua mục lục các tham luận sẽ trình bày, nét nổi bật đầu tiên là sự phong phú. Các vấn đề thuộc lịch sử của Việt Nam cùng mối quan hệ của Việt Nam với thế giới bên ngoài được đặt ra khá sâu, khá mới. Không ít người quan tâm đi vào cuộc sống của đất nước Việt Nam trong thì hiện tại. Là một người hoạt đông khoa học ở Nam Bộ và TP.HCM, tôi vô cùng cảm kích về những đánh giá, cả mặt thành tựu lẫn mặt khó khăn của Việt Nam khi bước vào thế kỷ XXI. Với các nhà khoa học nước ngoài, tôi xin nói lời cảm ơn. Các nhà khoa học nước ngoài, từ chỗ đứng khách quan, đóng góp cho cuộc gặp mặt của chúng ta nhiều đánh giá và phát triển đáng quý. Tôi xin dùng bài phát biểu ngắn của mình để nói đôi điều về cái mà Việt Nam chúng tôi phải phấn đấu, thậm chí phấn đấu mạnh mẽ, để vượt qua các trở ngại, tiến đến vị thế mà Việt Nam phải đạt được trong một tương lai không mơ hồ. Quá khứ Việt Nam, tính đến trước ngày Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ II này khai mạc, cung cấp cho chúng tôi những cứ liệu vững chắc và đó là niềm tự hào dân tộc. Có thể những trăm năm, những ngàn năm đầy bão táp của dân tộc Việt Nam phải xuyên qua, cả về khắc phục điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt lẫn đấu tranh chống lại những can thiệp không nhỏ mang tính xã hội và nhân văn từ tự thân người Việt Nam chúng tôi và từ bên ngoài, những cái đố tôn vinh thành quả hiện tại của Việt Nam. Một nước đói nghèo triền miên nay vượt được cửa ải ăn no, hơn thế nữa, góp mặt vào những quốc gia sản xuất lúa gạo đứng đầu của thế giới, chắc chắn không ai đánh giá thấp nỗ lực lao động, nỗ lực ứng dụng khoa học - kỹ thuật trên đồng ruộng của người Việt Nam. Từ một quốc gia liên miên bị chiến tranh phá hoại, nhiều thế kỷ sống dưới ách đô hộ bên ngoài, Việt Nam đã là một quốc gia độc lập, tự do. Cũng không ai có thể đánh giá thấp sự hy sinh lớn lao để giành lấy cái cốt yếu này. Là một quốc gia đến giữa thế kỷ XX vẫn còn chưa được nhiều người biết, có một chỗ đứng khiêm tốn, một chấm nhỏ trên bản đồ thế giới, nay đã giành được sự cư xử trân trọng trong mối giao tiếp với các quốc gia khác thuộc cộng đồng Liên Hiệp quốc. Nỗ lực hiện đại của Việt Nam trực tiếp mang đến những thành quả nổi bật nói trên. Song, nếu Việt Nam không có một quá khứ đã thành truyền thống và mang cái hồn của đất nước thì hiển nhiên khó mà vượt được nổi số phận của chính mình. Bắt nguồn từ quá khứ, luôn là điểm nhất quán trong quản lý làm người của Việt Nam. |
Một số tham luận của các chuyên gia nước ngoài gây chú ý tại Hội thảo như: Giáo sư Carlyle A.Thayer (Australia) với vấn đề "Việt Nam trong ASEAN: Sự đa phương hóa và các quan hệ với các cường quốc"; Giáo sư Andreas Hauskrecht (Đức) với "Hiện tượng đô-la hóa của nền kinh tế Việt Nam", Tiến sĩ Angie Ngoc Tran (Mỹ) với "Quy tắc ứng xử: Tác động đối với công nhân ngành dệt may Việt Nam và sự tham khảo từ các quốc gia Đông Nam ÃÂ", Tiến sĩ Helle Rydstrom (Thụy Điển) với "Các công dân có năng lực: Những thách thức về giáo dục trong giai đoạn hậu kỳ đổi mới ở Việt Nam", Giáo sư Furuta Motoo (Nhật Bản) với "Hình ảnh Việt Nam trong các sách giáo khoa lịch sử thế giới ở Nhật Bản", PGS TS Oksana Vladimirrovna Novakova (Nga) với "Văn hóa dân tộc Việt Nam và việc tìm kiếm bản sắc dân tộc trước toàn cầu hóa"... Các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng làm tăng thêm sức nặng và tính chuyên nghiệp của Hội thảo qua các công trình nghiên cứu kỹ lưỡng các vấn đề của Việt Nam.
Việt Nam - những vấn đề của đổi mới và hội nhập
Có mười tiểu ban được tập hợp thảo luận từ chiều hôm nay 14/7 về năm chủ đề chính: Việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hóa kinh tế; những vấn đề đổi mới và phát triển kinh tế của Việt Nam; các vấn đề xã hội, dân số và dân tộc ở Việt Nam; vấn đề lịch sử văn minh và phát triển văn hóa ở Việt Nam; Những nghiên cứu khu vực.
Tại Tiểu ban "Những vấn đề kinh tế", Việt Nam được đặt trong góc nhìn của xu thế hội nhập: Các mối quan hệ quốc tế, ảnh hưởng của sự đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, vai trò của các doanh nghiệp trong sự chuyển mình, đầu tư của Nhà nước cho các vùng kinh tế kém phát triển, vấn đề công bằng xã hội...
Tiểu ban "Xã hội" quan tâm đến các vấn đề dân cư, di dân, gia đình Việt Nam, xóa đói giảm nghèo, lao động dư thừa, vấn đề hôn nhân, phụ nữ, trẻ em...
Tiểu ban "Những vấn đề dân tộc" tập trung nghiên cứu đường lối dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam, các cộng đồng dân tộc chủ yếu tại Việt Nam, vấn đề tôn giáo, phong tục tập quán trong các dân tộc thiểu số, các dân tộc Việt Nam trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa...
Tiểu ban "Nghiên cứu giáo dục, con người và nguồn nhân lực" đề cập đến nhân lực, nhân tài, cơ hội cho sinh viên, nhân lực và doanh nghiệp, giáo dục phổ thông và nhân lực, vấn đề công dân có năng lực, lao động Việt Nam ở nước ngoài...
Hai Tiểu ban "Nghiên cứu lịch sử Cổ - Trung đại và Cận - Hiện đại" nghiên cứu và nhìn nhận lại những biến đổi lịch sử của Việt Nam qua các thời kỳ, các chính sách kinh tế - văn hóa - chính trị - ngoại giao qua các triều đại, các vấn đề nhân văn, truyền thống, các quy phạm đạo đức...
Hai Tiểu ban dành cho "Những vấn đề phát triển văn hóa, văn minh" và "Những vấn đề về văn học, ngôn ngữ" tập trung cho các vấn đề bản sắc văn hóa, bảo tồn bảo tàng, các công trình nghiên cứu văn học - khảo cổ - kiến trúc, vấn đề văn hóa phi vật thể, các nghi lễ, tín ngưỡng, văn hóa dân tộc Việt Nam trước xu thế toàn cầu hóa...
Tiểu ban ""Những vấn đề khu vực" tập trung nhìn nhận, đánh giá từ các góc độ của Việt Nam, đặt trong các mối quan hệ khu vực, những nét riêng trong mối bang giao quốc tế.
Việt Nam được đưa ra nghiên cứu tương đối toàn diện, qua đó thấy được bản sắc và những thế mạnh riêng. Theo trưởng Ban tổ chức hội thảo, TS. Trần Đức Cường, phó chủ tịch Viện KHXH Việt Nam, việc nghiên cứu về Việt Nam đã được tiến hành từ cuối thế kỷ XIX, nhưng thực sự trở thành một bộ môn riêng biệt thì phải đến sau năm 1945. Thế nhưng, việc hệ thống hóa theo từng lĩnh vực cụ thể của ngành này thì lại do các nhà khoa học trên thế giới thực hiện, bởi số lượng các nhà nghiên cứu và các tổ chức về Việt Nam học ở các nước rất đông đảo (chẳng hạn Nhật có khoảng 100 nhà Việt Nam học, Hàn Quốc có 30...). Điều này đã tác động tích cực và thúc đẩy giới khoa học Việt Nam có những công trình nghiên cứu sâu hơn về Việt Nam học. Trong hội thảo lần này, các đại biểu sẽ bàn đến vấn đề lập một Hội đồng Việt Nam học.
Đây là lần thứ hai hội thảo về Việt Nam học được tổ chức tại Việt Nam (lần I tại Hà Nội vào năm 1998). Hội thảo do Viện KHXH Việt Nam và Đại học Quốc gia Hà Nội đồng tổ chức, sẽ còn tiếp tục làm việc trong hai ngày 15 và 16/7/2004.
Một số nghiên cứu về Việt Nam qua góc nhìn văn hóa: PGS TS Kikuchi Seiichi (Trường ĐH Nữ thục Chiêu Hòa, Nhật Bản): "Hội An là vùng đất có bề dày lịch sử. Vào thế kỷ XVII-XVIII, Hội An không chỉ là một thương cảng lớn nhất Đàng Trong mà còn là hải cảng quan trọng của hệ thống thương mại quốc tế. Đây còn là điểm đến hấp dẫn của các nhà truyền giáo, thám hiểm... từ nhiều quốc gia. Các kết quả nghiên cứu khảo cổ học và tư liệu lịch sử cho thấy lịch sử cư trú của các cộng đồng dân cư tại vùng đất này được khởi đầu từ thời kỳ văn hóa Sa Huỳnh và thể hiện tính chất của một thương cảng quan trọng ngay từ thời kỳ này. Cư dân văn hóa Sa Huỳnh đã có sự giao lưu với nhiều nền văn hóa trong khu vực, đặc biệt là miền Nam Trung Quốc và Bắc Việt Nam. Bước vào thời đại Chăm-pa, nhờ những lợi thế tự nhiên mà địa điểm Bàu Đá thuộc xã Cẩm Thanh trở thành một thương cảng quan trọng khu vực trong khoảng thời gian từ thế kỷ IX đến thế kỷ XIII. Tuy nhiên, ở khu vực trên lại không thấy dấu vết các di tích trong khoảng từ thế kỷ XV đến đầu nửa đầu thế kỷ XVI. Hiện tượng này chắc chắn có liên quan đến sự suy vong của vương quốc Chăm-pa. Nhưng từ cuối thế kỷ XVI trở đi, số lượng các di tích lại tăng lên mạnh mẽ. Sự gia tăng này hẳn phải có quan hệ mật thiết với quá trình khai phá, xây dựng thương cảng Hội An và công cuộc di cư về phía Nam của chúa Nguyễn. Cũng từ đó, Dinh trấn Quảng Nam, trung tâm hành chính của khu cực Hội An, căn cứ thủy quân, làng gốm, phố thị... dần dần được xây dựng. Hội An đã phát triển thành một cảng thị, có sự giao lưu buôn bán quốc tế với nhiều quốc gia, đồng thời là địa bàn sinh tụ của nhiều nhóm thương nhân và kiều dân". (Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của Hội An qua việc phân bố các di tích). Ogawa Yuko - Trường ĐH Tổng hợp Tokyo (Nhật Bản): "Một yếu tố trong làng ảnh hưởng đến tái sinh lễ hội "truyền thống" là khả năng kinh tế. Khả năng kinh tế ở đây không chỉ là khả năng kinh tế của dân làng mà còn bao gồm cả sự tồn tại của "ông bầu" và chi phí tế lễ... Cách thức mở trở thành điều kiện thu hút chủ thể kinh tế từ bên ngoài. Khách tham quan là yếu tố thúc đẩy lễ hội "truyền thống". Một yếu tố nữa là khả năng tổ chức và đoàn kết, gồm cả khả năng huy động dân. Chúng ta không thể nói được rằng không gian cộng đồng khép kín để đảm bảo đoàn kết nội bộ, hay không gian mở rộng và du nhập kinh tế thị trường gồm cả việc di chuyển con người ngày một tăng lên dễ gây mất đoàn kết nội bộ. Đương nhiên tiến hành lễ hội góp phần tổ chức hóa hay tăng tính đoàn kết trong làng, nhưng nếu không có đủ khả năng tổ chức và đoàn kết trước mắt thì không tổ chức được lễ hội. Trong điều kiện hiện nay, khó tổ chức lễ hội theo cách thức quyết định và điều hành một cách khép kín. Cơ cấu mở cửa theo đó dân làng tham gia vào quá trình quyết định là điều kiện cho tái sinh lễ hội "truyền thống" có sự tham gia tích cực của dân làng...". (Đổi mới và tái sinh các hoạt động "truyền thống" của xã hội...) |